Hà Nội

Chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 16/12

16/12/2021 19:18

Công điện của Thủ tướng Chính phủ về ứng khó khẩn cấp với siêu bão sắp vào Biển Đông

Phó Thủ tướng Lê Văn Thành đã ký Công điện số 1737/CĐ-TTg ngày 16/12/2021 của Thủ tướng Chính phủ về ứng phó khẩn cấp với siêu bão sắp vào Biển Đông.

Nội dung công điện như sau:

Chiều nay (ngày 16/12/2021), siêu bão có tên quốc tế là RAI đã ảnh hưởng trực tiếp đến ven biển phía đông của Philippines; sức gió mạnh nhất vùng gần tâm bão mạnh cấp 16, giật trên cấp 17.

Theo dự báo của Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn Quốc gia, tối ngày 17 tháng 12 năm 2021 bão sẽ vào biển Đông với sức gió mạnh nhất vùng gần tâm bão đạt cấp 13-14, giật cấp 17, gây sóng biển cao từ 6-8 m ở khu vực bắc, giữa và nam Biển Đông; ngày 19 và 20 tháng 12, khu vực biển ngoài khơi các tỉnh Trung Bộ có thể có gió mạnh cấp 11-12, giật cấp 14-15; đe dọa trực tiếp đến an toàn của tàu thuyền và các hoạt động trên biển, ven biển.

Đây là cơn bão cường độ rất mạnh, di chuyển nhanh, xảy ra vào cuối mùa mưa bão, diễn biến còn rất phức tạp. Để chủ động ứng phó với diễn biến của bão, bảo đảm an toàn cho tàu thuyền và các hoạt động trên biển, an toàn tính mạng của Nhân dân, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Ban chỉ đạo quốc gia về phòng, chống thiên tai, các bộ, ngành và địa phương theo dõi chặt chẽ diễn biến của bão, quyết liệt chỉ đạo, triển khai kịp thời công tác ứng phó với bão theo chức năng, nhiệm vụ được giao, tập trung một số nhiệm vụ sau:

1. Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố ven biển:

a) Phối hợp với lực lượng biên phòng và các cơ quan có liên quan chỉ đạo rà soát, nắm rõ ngay tất cả phương tiện, tàu thuyền còn hoạt động trên biển (bao gồm cả tàu cá, tàu vận tải và phương tiện khác) và các hoạt động trên biển; tổ chức theo dõi sát diễn biến của bão, chỉ đạo thông tin, hướng dẫn phương tiện, tàu thuyền di chuyển về nơi tránh trú an toàn, kiên quyết không để tàu thuyền, phương tiện hoạt động trong vùng có nguy cơ ảnh hưởng của bão; triển khai các biện pháp bảo đảm an toàn đối với các hoạt động trên biển, an toàn tính mạng và phòng chống dịch COVID-19 cho người dân tại nơi neo đậu, tránh trú.

b) Căn cứ diễn biến, nguy cơ ảnh hưởng của bão và thực tế tại địa phương chỉ đạo, triển khai các biện pháp cần thiết đảm bảo an toàn cho người và tài sản trên các đảo và trên lồng bè nuôi trồng thủy hải sản.

c) Rà soát, chuẩn bị sẵn phương án để chủ động ứng phó với tình huống bão ảnh hưởng đến địa phương; chủ động bố trí lực lượng, phương tiện, vật tư sẵn sàng ứng phó, xử lý mọi tình huống, không để bị động, bất ngờ, nhất là đảm bảo an toàn dân cư trong bối cảnh dịch COVID-19, bảo vệ đê  điều, hồ đập, bảo vệ sản xuất.

2. Bộ Tài nguyên và Môi trường chỉ đạo, tổ chức theo dõi chặt chẽ, dự báo, cung cấp thông tin kịp thời về diễn biến bão để Ban chỉ đạo quốc gia về phòng, chống thiên tai, các bộ, ngành, cơ quan, địa phương và người dân biết chủ động chỉ đạo và triển khai các biện pháp ứng phó phù hợp với diễn biến của bão.

3. Bộ Ngoại giao theo dõi, chủ động liên hệ với các quốc gia, vùng lãnh thổ tạo điều kiện cho tàu thuyền Việt Nam vào trú tránh bão khi có yêu cầu.

4. Bộ Y tế chỉ đạo công tác đảm bảo an toàn phòng, chống dịch COVID-19, đặc biệt là các khu vực dự kiến sơ tán dân cư khi có tình huống.

5. Các Bộ: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Công Thương, Giao thông vận tải, Quốc phòng và các bộ ngành khác có liên quan theo chức năng quản lý nhà nước và nhiệm vụ được giao chủ động chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc triển khai các biện pháp ứng phó với bão, bảo đảm an toàn đối với lĩnh vực được phân công theo dõi, nhất là bảo đảm an toàn cho tàu thuyền và các hoạt động trên biển, ven biển.

6. Uỷ ban Quốc gia ứng phó sự cố thiên tai và tìm kiếm cứu nạn, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an chỉ đạo rà soát phương án, sẵn sàng triển khai lực lượng, phương tiện hỗ trợ địa phương ứng phó bão khi có yêu cầu.

7. Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, các cơ quan thông tấn, báo chí đưa tin kịp thời diễn biến của bão, công tác chỉ đạo ứng phó để người dân biết, chủ động phòng, tránh.

8. Ban chỉ đạo quốc gia về phòng, chống thiên tai tổ chức trực ban 24/24, theo dõi chặt chẽ diễn biến của bão, kịp thời chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra các ngành, các địa phương triển khai các phương án ứng phó cụ thể phù hợp với diễn biến của bão, nhất là bảo đảm an toàn cho tàu thuyền và các hoạt động trên biển, ven biển, an toàn tính mạng người dân; kịp thời báo cáo, đề xuất Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo những vấn đề vượt thẩm quyền.

-------------------------

Kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại cuộc làm việc với Bảo hiểm xã hội Việt Nam về tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 2020 và 11 tháng năm 2021; nhiệm vụ, giải pháp tháng cuối năm 2021 và giai đoạn tiếp theo

Ngày 16/12/2021, Văn phòng Chính phủ  đã có Thông báo 339/TB-VPCP kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại cuộc làm việc với Bảo hiểm xã hội Việt Nam về tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 2020 và 11 tháng năm 2021; nhiệm vụ, giải pháp tháng cuối năm 2021 và giai đoạn tiếp theo.

Độ bao phủ BHXH, BHYT ngày càng được mở rộng

Tại Thông báo, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính biểu dương những kết quả công tác đạt được năm 2020 và 11 tháng đầu năm 2021 của BHXHVN. Toàn ngành BHXH đã có nhiều cố gắng, hoàn thành tốt các nhiệm vụ được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao, thể hiện ở một số kết quả nổi bật như:

Bám sát chủ trương, đường lối, chỉ đạo của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành xây dựng, hoàn thiện chính sách về bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm thất nghiệp (BHTN), bảo hiểm y tế (BHYT); đặc biệt đã phối hợp trình cấp thẩm quyền ban hành và tổ chức triển khai thực hiện kịp thời, hiệu quả các chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do ảnh hưởng bởi dịch bệnh COVID-19.

Tích cực triển khai Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương, đạt được nhiều mục tiêu đề ra; độ bao phủ BHXH, BHYT ngày càng được mở rộng, trong đó đối tượng tham gia BHXH tự nguyện đã vượt chỉ tiêu đề ra tại Nghị quyết số 28-NQ/TW, BHYT cơ bản hoàn thành mục tiêu bao phủ toàn dân.

Quản lý Quỹ BHXH bảo đảm an toàn, bền vững, hiệu quả, góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội và  ổn định kinh tế vĩ mô.

Công tác thanh tra, kiểm tra được chú trọng, đổi mới phương thức, cách thức thực hiện, mang lại hiệu quả tích cực, nâng cao tính tuân thủ pháp luật về BHXH.

BHXHVN đã có nhiều cố gắng trong việc thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương, giảm đầu mối cấp Vụ, cấp phòng, các chức danh lãnh đạo các cấp ở cả Trung ương và địa phương, giảm 2.168 biên chế (10% so với biên chế được giao năm 2016) theo mục tiêu tại Nghị quyết 39-NQ/TW của Bộ Chính trị.

BHXHVN là một trong những cơ quan đi đầu trong ứng dụng công nghệ thông tin. Triển khai kịp thời, hiệu quả các dịch vụ công trực tuyến, thanh toán điện tử, giao dịch điện tử, liên thông, giải quyết thủ tục hành chính trên Trục dữ liệu quốc gia, triển khai ứng dụng VssID- BHXH số. Hệ thống cơ sở dữ liệu điện tử của BHXHVN đã hỗ trợ hiệu quả trong các hoạt động phòng chống dịch bệnh thời gian qua.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động của BHXHVN vẫn còn những tồn tại, khó khăn, thách thức, như: khuôn khổ pháp lý hiện hành còn có vướng mắc cần phải được rà soát, hoàn thiện, nhất là một số quy định tại các luật liên quan (BHXH, BHYT, Việc làm, Thanh tra,…); tác động của dịch bệnh COVID-19 gây nhiều khó khăn trong thực hiện nhiệm vụ phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm và một số chỉ tiêu về độ bao phủ; tình trạng nợ đóng, chậm đóng BHXH có xu hướng tăng; việc giải quyết chế độ đối với người lao động trong trường hợp doanh nghiệp nợ BHXH mà giải thể, phá sản hoặc chủ là người nước ngoài bỏ trốn còn vướng mắc; tình trạng lạm dụng, trục lợi quỹ BHXH, BHTN, BHYT vẫn còn xảy ra; một số nơi nhận thức về vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền trong việc thực hiện chính sách, pháp luật về BHXH, BHYT chưa đầy đủ, ý thức chấp hành chính sách pháp luật của người sử dụng lao động chưa cao.

Thủ tướng yêu cầu trong thời gian tới, BHXHVN cần tập trung thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm. Cụ thể, BHXHVN tiếp tục bám sát chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và chỉ  đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ để triển khai có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao, với quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, có trọng tâm trọng điểm.

Nhận thức sâu sắc, đầy đủ, toàn diện về vai trò của an sinh xã hội trong nền kinh tế thị trường, “không hy sinh tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần”. An sinh xã hội phải lấy người dân vừa là trung tâm vừa là chủ thể, là mục tiêu, động lực, góp phần vào sự ổn định, lành mạnh của xã hội và phát triển của đất nước. An sinh xã hội phải dựa trên 3 trụ cột chính là phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục rủi ro, có sự linh hoạt, bám sát thực tiễn trong quá trình thực hiện, đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết, trước hết. Nắm chắc diễn biến tình hình (nhất là tình hình dịch bệnh, thiên tai, bão lũ…) để tham mưu kịp thời cho các cấp, các ngành xử lý các vấn đề thực tiễn đặt ra.

Đẩy mạnh phát triển người tham gia BHXH, BHTN, BHYT

BHXHVN phối hợp chặt chẽ với các Bộ, cơ quan rà soát, hoàn thiện thể chế, chiến lược, quy hoạch trong lĩnh vực BHXH, BHTN, BHYT; khẩn trương lập Tổ công tác để rà soát các vướng mắc pháp luật liên quan đến quy định tại các Luật, Nghị định, Quyết định, Thông tư và đề xuất cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, nhất là các quy định tại Luật BHXH, Luật Việc làm, Luật Thanh tra, bảo đảm đồng bộ, khả thi, phù hợp với các Nghị quyết của Trung ương và tháo gỡ được các khó khăn, vướng mắc trong lĩnh vực quản lý của BHXHVN.

Tiếp tục đẩy mạnh phát triển người tham gia BHXH, BHTN, BHYT; giải quyết chế độ đảm bảo chính xác, kịp thời, thuận tiện; tiếp tục đổi mới phương thức phục vụ người dân, khuyến khích giải quyết hồ sơ qua hệ thống dịch vụ công trực tuyến và chi trả không dùng tiền mặt. Triển khai kịp thời các chương trình hỗ trợ người lao động, người sử dụng lao động bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 theo các Nghị quyết của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, đánh giá kết quả thực hiện, đề xuất sửa đổi, bổ sung đảm bảo thực hiện kịp thời, hiệu quả chế độ, chính sách cho các đối tượng thuộc diện được hỗ trợ.

Xử lý các hành vi trốn đóng BHXH

BHXHVN rà soát, sắp xếp tổ chức bộ máy, biên chế theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo đúng quy định tại Nghị quyết số 18-NQ/TW, Nghị quyết số 19-NQ/TW của Trung ương, Kế hoạch số 07-KH/TW của Bộ Chính trị; quán triệt và thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII), Nghị quyết 26-NQ/TW và Kế hoạch 10-KH/TW của Bộ Chính trị, xây dựng đội ngũ cán bộ ngành BHXH có phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, nhất là người đứng đầu; giữ gìn và củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong nội bộ, kịp thời bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo khi khuyết thiếu.

Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, bảo đảm linh hoạt, hiệu quả; kịp thời phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, tiêu cực, lãng phí, trốn đóng, gian lận, trục lợi quỹ BHXH, BHTN, BHYT. Tập trung thu hồi các khoản chi sai mục đích, sai quy định, các khoản nợ  đóng, chậm đóng.

BHXHVN quản lý quỹ BHXH, BHTN, BHYT an toàn, bền vững và hiệu quả, vừa bảo đảm quyền lợi cho người lao động, vừa đóng góp vào ổn định kinh tế vĩ mô và phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, đặt lợi ích của quốc gia dân tộc lên trên lợi ích của ngành.

Tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa cải cách thủ tục hành chính và chuyển đổi số, xây dựng cơ sở dữ liệu, nâng cao năng lực quản trị, chất lượng phục vụ, rút ngắn thời gian giải quyết các thủ tục hành chính; chống tiêu cực, tham nhũng. Hoàn thiện cơ sở hạ tầng, kết nối liên thông, chia sẻ dữ liệu với các bộ, ngành, bảo đảm thông suốt, chính xác, nhanh chóng, an ninh an toàn, tạo thuận lợi cho việc giải quyết thủ tục hành chính trên môi trường mạng.

Đồng thời, BHXHVN phối hợp chặt chẽ với cơ quan truyền thông để đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác thông tin, truyền thông theo hướng đa dạng, linh hoạt, thiết thực, để người dân có thể tiếp cận tốt nhất mọi thông tin về chính sách BHXH, BHTN, BHYT.

--------------------------

Phê duyệt Đề án "Định hướng thu hút, quản lý và sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài giai đoạn 2021 – 2025”

Thủ tướng Thường trực Chính phủ Phạm Bình Minh đã ký Quyết định 2109/QĐ-TTg ngày 15/12/2021 phê duyệt Đề án "Định hướng thu hút, quản lý và sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài giai đoạn 2021 - 2025".

Theo đó, về kế hoạch bố trí vốn ODA và vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài, tổng số vốn ODA và vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài dự kiến bố trí trong giai đoạn 2021 - 2025 khoảng 527,1 nghìn tỷ  đồng, trong đó vay cấp phát từ ngân sách trung ương là 305 nghìn tỷ đồng (bao gồm chi cho đầu tư phát triển là 300 nghìn tỷ đồng, chi cho hành chính sự nghiệp đối với các hiệp định ký từ năm 2017 trở về trước là 5,1 nghìn tỷ đồng), vay về cho vay lại là 222 nghìn tỷ đồng (bao gồm cho vay lại từ ngân sách trung ương đối với ngân sách địa phương và cho vay lại doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp công lập).

Căn cứ Nghị quyết số 29/2021/QH15 ngày 28/7/2021 của Quốc hội về Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 - 2025, trong số 300 nghìn tỷ đồng vốn ODA và vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài cấp phát từ ngân sách trung ương, 270 nghìn tỷ đồng sử dụng cho các dự án chuyển tiếp và các dự án mới (bao gồm số vốn phân bổ cho các bộ, cơ quan trung ương và  địa phương là 179.657,898 tỷ đồng, số vốn chưa phân bổ chi tiết cho các bộ, cơ quan trung ương và  địa phương là 90.342,102 tỷ đồng), 30 nghìn tỷ  đồng là vốn dự phòng.

Định hướng ưu tiên sử dụng vốn ODA và vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài giai đoạn 2021 - 2025 theo ngành, lĩnh vực về cơ bản thực hiện theo Nghị định số 56/2020/NĐ-CP ngày 25/5/2020.

Cụ thể, vốn ODA không hoàn lại ưu tiên sử dụng để thực hiện chương trình, dự án phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội; tăng cường năng lực; hỗ trợ xây dựng chính sách, thể chế và cải cách; phòng, chống, giảm nhẹ rủi ro thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu; an sinh xã hội; chuẩn bị các dự án đầu tư hoặc đồng tài trợ cho dự án sử dụng vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài nhằm làm tăng thành tố ưu đãi của khoản vay.

Vốn vay ODA được ưu tiên sử dụng cho các chương trình, dự án trong lĩnh vực y tế, giáo dục, giáo dục nghề nghiệp, thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường, hạ tầng kinh tế thiết yếu không có khả năng thu hồi vốn trực tiếp.

Vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài được ưu tiên sử dụng cho chương trình, dự án vay về  để cho vay lại theo quy định của pháp luật về cho vay lại vốn vay ODA, vay ưu đãi của Chính phủ; chương trình, dự án thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách nhà nước trong lĩnh vực phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội.

Đồng thời căn cứ nhu cầu thực tế, bổ sung lĩnh vực thảm họa, dịch bệnh tăng trưởng xanh và đổi mới sáng tạo ưu tiên sử dụng vốn ODA không hoàn lại trong giai đoạn này.

Định hướng phân bổ vốn ODA theo vùng kinh tế

Ngoài ra, định hướng phân bổ vốn ODA và vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài giai đoạn 2021 - 2025 theo vùng kinh tế. Theo đó, ưu tiên ODA không hoàn lại và ODA vốn vay cho các địa phương có điều kiện phát triển kinh tế, xã hội khó khăn thông qua cơ chế cấp phát từ ngân sách trung ương.

Ưu tiên sử dụng vốn ODA và vay ưu đãi của các các nhà tài trợ nước ngoài các dự án cải thiện cơ sở hạ tầng, giúp các vùng, địa phương khó khăn phát triển kinh tế, dần bắt kịp với các vùng, địa phương khác; ưu tiên sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài tại các vùng, địa phương có khả năng huy động vốn trong nước thấp; các dự án hỗ trợ giải quyết các vấn đề bức xúc trong quá trình đô thị hóa nhanh ở các tỉnh.

Ưu tiên sử dụng vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài cho các địa phương phát triển, các dự án phù hợp với trình độ phát triển, năng lực hấp thụ và sử dụng vốn ODA, vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài của địa phương tiếp nhận; các dự án kết nối liên vùng, liên tỉnh tại các khu vực Tây Bắc, Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long để có điều kiện phát triển nhanh hơn.

--------------------------

Kế hoạch thực hiện Kết luận số 19-KL/TW của Bộ Chính trị và Đề án Định hướng Chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV

Ngày 16/12/2021, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Phạm Bình Minh đã ký Quyết định số 2114/QĐ-TTg ban hành Kế hoạch thực hiện Kết luận số 19-KL/TW của Bộ Chính trị và Đề án Định hướng Chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV.

Kế hoạch đặt ra yêu cầu xác định rõ trách nhiệm, bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, đơn vị liên quan trong thực hiện Kế hoạch; việc thực hiện các nhiệm vụ phải đảm bảo đúng tiến độ, chất lượng, hiệu quả và khả thi.

Một trong những nội dung thực hiện là tập trung soạn thảo, xây dựng, trình các dự án, dự thảo theo Đề  án của Đảng đoàn Quốc hội và đã có trong Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2021 và 2022.

Đồng thời, tập trung nghiên cứu, rà soát để kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc nghiên cứu, đề xuất xây dựng mới các văn bản luật, pháp lệnh, nghị quyết đã được xác định trong Đề án.

Bên cạnh đó, ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học pháp lý vào xây dựng pháp luật. Trong đó, chú trọng ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học pháp lý vào xây dựng pháp luật. Hiện đại hóa phương thức, phương tiện xây dựng pháp luật. Khai thác, ứng dụng thành tựu của khoa học, công nghệ, nhất là công nghệ số để đổi mới phương pháp, rút ngắn quy trình, tiết giảm thời gian, nâng cao chất lượng soạn thảo, thẩm định, thẩm tra, tiếp thu, chỉnh lý và thông qua các dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết.

Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ có trách nhiệm trực tiếp chỉ đạo việc xây dựng các dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết đã có trong Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội năm 2021, năm 2022 và nghiên cứu, rà soát hoặc nghiên cứu xây dựng mới từ nay cho đến hết năm 2025.

Đồng thời, bảo đảm chất lượng, tiến độ xây dựng; nghiên cứu, rà soát; nghiên cứu xây dựng mới các dự án luật được giao, trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; chủ động phối hợp chặt chẽ ngay từ đầu với Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ, các bộ, ngành liên quan, Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội trong quá trình soạn thảo, chỉnh lý dự án luật.

Kịp thời kiến nghị điều chỉnh, bổ sung các nhiệm vụ lập pháp để bảo đảm phù hợp với các chủ trương, định hướng được đề ra trong các văn kiện mới của Đảng, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế.

Các bộ, cơ quan ngang bộ đẩy mạnh và đối mới các phương pháp, hình thức lấy ý kiến các cơ quan, tổ chức; lấy ý kiến chuyên gia, đối tượng chịu sự tác động của văn bản và nghiêm túc tiếp thu, giải trình ý kiến góp ý để đảm bảo tính khả thi; cử người đại diện đúng thẩm quyền, tham gia đầy đủ trong quá trình tiếp thu, chỉnh lý và kịp thời báo cáo Chính phủ những vấn đề lớn có ý kiến khác nhau hoặc phát sinh để giải trình, bảo vệ trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội và báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định.

-------------------------

Chủ trương tích hợp Kế hoạch hành động vì an toàn giao thông đường bộ 2021-2030

Ngày 16/12/2021, Văn phòng Chính phủ đã có công văn số 9186/VPCP-CN truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Phạm Bình Minh về chủ trương tích hợp Kế hoạch hành động toàn cầu thập kỷ hành động vì an toàn giao thông đường bộ 2021-2030.

Theo đó, Phó Thủ tướng đã giao Ủy ban An toàn giao thông quốc gia chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành có liên quan tiếp thu, lồng ghép những nội dung phù hợp của Kế hoạch toàn cầu thực hiện thập kỷ hành động vì an toàn giao thông đường bộ 2021-2030 vào Kế hoạch hành động thực hiện Chiến lược quốc gia bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ giai đoạn 2021-2030 ban hành kèm theo Quyết định số 2060/QĐ-TTg ngày 12/12/2020 của Thủ tướng Chính phủ.

Đồng thời, Bộ Giao thông vận tải chủ trì tiếp thu, lồng ghép những nội dung phù hợp của Kế hoạch toàn cầu nêu trên vào dự thảo Nghị quyết của Chính phủ để thay thế Nghị quyết số 12/NQ-CP ngày 19/12/2019 về tăng cường bảo đảm trật tự, an toàn giao thông và chống ùn tắc giao thông giai đoạn 2019-2020./.

Top