Hà Nội

Chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 29/3

29/03/2021 21:15

Tổ chức mô hình chính quyền đô thị tại TP Hà Nội

Chính phủ ban hành Nghị định số 32/2021/NĐ-CP quy định chi tiết và biện pháp thi hành Nghị quyết số 97/2019/QH14 ngày 27/11/2019 của Quốc hội về thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị tại thành phố Hà Nội.

Công chức bình quân tại phường là 15 người

Theo Nghị định, Biên chế công chức làm việc tại UBND phường thuộc biên chế công chức của UBND quận, thị xã và do UBND quận, thị xã quản lý, sử dụng.

Căn cứ quy định của pháp luật về thẩm quyền và phân cấp, UBND thành phố Hà Nội và Chủ tịch UBND quận, thị xã thực hiện việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức làm việc tại UBND phường.

Chủ tịch UBND quận, thị xã quyết định bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, điều động, luân chuyển, biệt phái, khen thưởng, kỷ luật, tạm đình chỉ công tác đối với Chủ tịch UBND phường (Chủ tịch phường), Phó Chủ tịch UBND phường (Phó Chủ tịch phường); khen thưởng, kỷ luật công chức làm việc tại UBND phường; giao quyền Chủ tịch phường theo quy định của pháp luật.

Sở Nội vụ thành phố Hà Nội thực hiện hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức làm việc tại UBND phường.

Cơ cấu tổ chức của UBND phường gồm: Chủ tịch phường; Phó Chủ tịch phường; Trưởng Công an phường; Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy Quân sự Phường và các công chức khác: Văn phòng – Thống kế; Địa chính – Xây dựng – Đô thị và Môi trường; Tài chính – Kế toán; Tư pháp – Hội tịch, Văn hóa – Xã hội.

Biên chế công chức bình quân làm việc tại UBND phường là 15 người. Số bình quân này được tính trên tổng số phường của một quận, thị xã.

Căn cứ quy định trên, UBND thành phố Hà Nội trình Hội đồng nhân dân cùng cấp phân bổ số lượng biên chế công chức của UBND phường thuộc từng quận, thị xã.

Chủ tịch UBND quận, thị xã thực hiện việc tuyển dụng, sử dụng, quản lý công chức làm việc tại UBND phường.

Chủ tịch phường không giữ chức vụ quá 10 năm liên tục ở cùng một đơn vị hành chính

Nghị định nêu rõ, thời hạn giữ chức vụ Chủ tịch, Phó Chủ tịch phường cho mỗi lần bổ nhiệm là 5 năm, tính từ thời điểm quyết định bổ nhiệm có hiệu lực.

Chủ tịch phường không giữ chức vụ quá 10 năm liên tục ở cùng một đơn vị hành chính phường (*)

Thời gian giữ chức vụ chủ tịch UBND phường trước ngày 1/7/2021 được tính vào thời gian giữ chức vụ Chủ tịch phường quy định tại *.

Từ ngày 1/7/2021, Chủ tịch, Phó Chủ tịch phường, công chức cấp xã ở phường được bầu hoặc tuyển dụng trước ngày 1/7/2021 được chuyển thành công chức làm việc tại phường đang công tác; trường hợp chuyển sang vị trí việc làm mới thì công chức phải bảo đảm điều kiện, tiêu chuẩn phù hợp vị trí việc làm đó.

Chủ tịch phường phải tổ chức đối thoại ít nhất 02 lần/năm

Theo Nghị định số 32/2021/NĐ-CP, hằng năm ít nhất hai lần, trước kỳ họp thường kỳ của Hội đồng nhân dân quận, thị xã, Chủ tịch phường có trách nhiệm tổ chức hội nghị đối thoại với Nhân dân ở phường về những vấn đề liên quan đến quyền lợi và nguyện vọng chính đáng của công dân ở địa phương.

Căn cứ vào quy mô dân số của phường, Chủ tịch phường có thể tổ chức đối thoại với Nhân dân qua các đại diện tổ dân phố.

UBND phường phải thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng và gửi thông báo đến Tổ trưởng tổ dân phố về thời gian, địa điểm, nội dung của hội nghị đối thoại với Nhân dân chậm nhất là 7 ngày trước ngày tổ chức hội nghị.

Tổ chức chính quyền đô thị tại TP Hồ Chí Minh

Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 33/2021/NĐ-CP quy định chi tiết và biện pháp thi hành Nghị quyết số 131/2020/QH14 ngày 16/11/2020 của Quốc hội về tổ chức chính quyền đô thị tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Theo đó, mỗi Ban thuộc Hội đồng nhân dân (HĐND) Thành phố Hồ Chí Minh có 1 Ủy viên hoạt động chuyên trách. Ủy viên hoạt động chuyên trách do Thường trực HĐND Thành phố Hồ Chí Minh xem xét, phê chuẩn theo đề nghị của Trưởng ban của HĐND.

Chức danh Ủy viên hoạt động chuyên trách (Ủy viên chuyên trách) tại các Ban thuộc HĐND thành phố Hồ Chí Minh gồm: Ủy viên chuyên trách Ban Pháp chế; Ủy viên chuyên trách Ban Kinh tế - ngân sách; Ủy viên chuyên trách Ban Văn hóa - xã hội; Ủy viên chuyên trách Ban đô thị.

Cơ cấu tổ chức của UBND quận gồm: Chủ tịch quận; Phó Chủ tịch quận; Trưởng Công an quận; Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy quân sự quận; các cơ quan chuyên môn thuộc UBND quận; các cơ quan hành chính khác và các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc UBND quận.

UBND thành phố Thành phố Hồ Chí Minh quy định cụ thể tên gọi và số lượng cơ quan chuyên môn thuộc UBND quận cho phù hợp. Riêng Văn phòng Hội đồng nhân dân, UBND quận gọi là Văn phòng UBND quận.

Việc thành lập các cơ quan hành chính khác thuộc UBND quận được thực hiện theo quy định của pháp luật về thành lập, tổ chức lại, giải thể tổ chức hành chính và theo quy định pháp luật chuyên ngành. Việc thành lập các đơn vị sự nghiệp thuộc UBND quận thực hiện theo quy định về thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập và theo quy định tại văn bản pháp luật chuyên ngành.

Ủy ban nhân dân quận làm việc theo chế độ thủ trưởng; bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ; đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng dịch vụ công trực tuyến vào giải quyết thủ tục hành chính cho cá nhân, tổ chức tại quận và theo quy định của pháp luật, bảo đảm các hoạt động của Ủy ban nhân dân quận phải dân chủ, công khai, minh bạch, thống nhất, thông suốt. 

Cơ quan chuyên môn thuộc UBND thành phố thuộc TP Hồ Chí Minh

Nghị định nêu rõ, cơ quan chuyên môn thuộc UBND thành phố thuộc Thành phố Hồ Chí Minh bao gồm: Văn phòng HĐND và UBND; Phòng Nội vụ; Phòng Tư pháp; Phòng Tài chính - Kế hoạch; Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội; Phòng Văn hóa và Thông tin; Phòng Quản lý đô thị; Phòng Tài nguyên và Môi trường; Phòng Giáo dục và Đào tạo; Thanh tra quận; Phòng Kinh tế; Phòng Y tế; Phòng Khoa học và Công nghệ.

Căn cứ quy định, HĐND cùng cấp xem xét, quyết định việc thành lập, tổ chức lại, giải thể các phòng cho phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước ở thành phố thuộc Thành phố Hồ Chí Minh; quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của phòng thuộc UBND thành phố thuộc Thành phố Hồ Chí Minh.

Số lượng cấp phó của người đứng đầu các cơ quan chuyên môn thuộc UBND thành phố  thuộc Thành phố Hồ Chí Minh do UBND thành phố thuộc thành phố Hồ Chí Minh xem xét, quyết định nhưng số lượng không quá 3 người.

Nghị định cũng quy định cơ cấu tổ chức của UBND phường gồm: Chủ tịch phường; Phó Chủ tịch phường; Trưởng Công an phường; Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy quân sự phường; các công chức: Văn phòng - Thống kê; Địa chính - Xây dựng - Đô thị và Môi trường; Tài chính - Kế toán; Tư pháp - Hộ tịch; Văn hóa - Xã hội.

Công chức làm việc tại UBND phường là người được tuyển dụng, bổ nhiệm giữ chức danh thuộc cơ cấu tổ chức của UBND phường (trừ Trưởng Công an phường).

Ủy ban nhân dân phường làm việc theo chế độ thủ trưởng.

Biên chế công chức bình quân làm việc tại Ủy ban nhân dân phường là 15 người. Số bình quân này được tính trên tổng số phường của một quận, thành phố thuộc Thành phố Hồ Chí Minh.

Thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị tại TP Đà Nẵng

Chính phủ vừa ban hành Nghị định 34/2021/NĐ-CP quy định chi tiết và biện pháp thi hành Nghị quyết số 119/2020/QH14 ngày 19/6/2020 của Quốc hội về thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị và một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng.

Theo đó, cơ cấu tổ chức của UBND quận gồm: Chủ tịch quận; Phó Chủ tịch quận; Trưởng Công an quận; Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy quân sự quận; các cơ quan chuyên môn thuộc UBND quận; các cơ quan hành chính khác và các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc UBND quận.

UBND thành phố Đà Nẵng quy định cụ thể tên gọi và số lượng cơ quan chuyên môn thuộc UBND quận cho phù hợp. Riêng Văn phòng Hội đồng nhân dân, UBND quận được gọi là Văn phòng UBND quận.

Việc thành lập các cơ quan hành chính khác thuộc UBND quận được thực hiện theo quy định của pháp luật về thành lập, tổ chức lại, giải thể tổ chức hành chính và theo quy định pháp luật chuyên ngành. Việc thành lập các đơn vị sự nghiệp thuộc UBND quận thực hiện theo quy định về thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập và theo quy định tại văn bản pháp luật chuyên ngành.

Ủy ban nhân dân quận làm việc theo chế độ thủ trưởng; bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ. Đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng dịch vụ công trực tuyến vào giải quyết thủ tục hành chính cho cá nhân, tổ chức tại quận và theo quy định của pháp luật, bảo đảm các hoạt động của Ủy ban nhân dân quận phải dân chủ, công khai, minh bạch, thống nhất, thông suốt.  

Nghị định cũng quy định cơ cấu tổ chức của UBND phường gồm: Chủ tịch phường; Phó Chủ tịch phường; Trưởng Công an phường; Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy quân sự phường; các công chức: Văn phòng - Thống kê; Địa chính - Xây dựng - Đô thị và Môi trường; Tài chính - Kế toán; Tư pháp - Hộ tịch; Văn hóa - Xã hội.

Công chức làm việc tại UBND phường là người được tuyển dụng, bổ nhiệm giữ chức danh thuộc cơ cấu tổ chức của UBND phường (trừ Trưởng Công an phường).

Ủy ban nhân dân phường làm việc theo chế độ thủ trưởng.

Biên chế công chức bình quân làm việc tại Ủy ban nhân dân phường là 15 người. Số bình quân này được tính trên tổng số phường của một quận.

Theo Nghị định này, kể từ ngày 1/7/2021, Chủ tịch, Phó Chủ tịch phường, công chức cấp xã ở phường được bầu hoặc tuyển dụng trước ngày 1/7/2021 được chuyển thành công chức làm việc tại phường đang công tác; trường hợp chuyển sang vị trí việc làm mới thì công chức phải bảo đảm điều kiện, tiêu chuẩn phù hợp vị trí việc làm đó.

Sửa đổi thủ tục cưỡng chế bàn giao kinh phí bảo trì nhà chung cư

Chính phủ vừa ban hành Nghị định 30/2021/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 99/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Nhà ở, trong đó sửa đổi bổ sung Điều 37 thủ tục cưỡng chế bàn giao kinh phí bảo trì phần sở hữu chung của nhà chung cư.

Cụ thể, thủ tục cưỡng chế bàn giao kinh phí bảo trì đối với trường hợp chủ đầu tư không bàn giao kinh phí đã thu theo quy định tại khoản 1 Điều 36 của Nghị định số 99/2015/NĐ-CP được thực hiện như sau:

- Trường hợp chủ đầu tư không bàn giao kinh phí bảo trì theo quy định thì Ban quản trị nhà chung cư có văn bản đề nghị Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có nhà chung cư yêu cầu chủ đầu tư bàn giao kinh phí bảo trì theo quy định.

- Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản của Ban quản trị nhà chung cư, UBND cấp tỉnh có văn bản yêu cầu tổ chức tín dụng nơi chủ đầu tư mở tài khoản tiền gửi kinh phí bảo trì cung cấp thông tin về số tài khoản, số tiền trong tài khoản. Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản của UBND cấp tỉnh, tổ chức tín dụng có trách nhiệm cung cấp thông tin cho UBND cấp tỉnh.

- Căn cứ vào thông tin do tổ chức tín dụng cung cấp, UBND cấp tỉnh ban hành Quyết định cưỡng chế thu hồi kinh phí bảo trì để bàn giao cho Ban quản trị nhà chung cư. Quyết định cưỡng chế này được gửi đến Sở Xây dựng, chủ đầu tư, Ban quản trị nhà chung cư và tổ chức tín dụng nơi chủ đầu tư mở tài khoản để thực hiện chuyển giao kinh phí bảo trì.

- Trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày nhận được Quyết định cưỡng chế của UBND cấp tỉnh, tổ chức tín dụng đang quản lý tài khoản tiền gửi kinh phí bảo trì có trách nhiệm chuyển kinh phí này sang tài khoản do Ban quản trị nhà chung cư lập để quản lý, sử dụng theo quy định của pháp luật về nhà ở.

- Sau khi chuyển kinh phí bảo trì sang tài khoản của Ban quản trị nhà chung cư, tổ chức tín dụng phải có văn bản thông báo cho UBND cấp tỉnh, Sở Xây dựng, chủ đầu tư và Ban quản trị nhà chung cư biết.

Thủ tục cưỡng chế bàn giao kinh phí bảo trì từ tài khoản kinh doanh của chủ đầu tư trong trường hợp chủ đầu tư không còn tiền hoặc còn tiền nhưng không đủ để bàn giao được thực hiện như sau:

- Trường hợp trong tài khoản tiền gửi kinh phí bảo trì không còn đủ hoặc không còn kinh phí để bàn giao thì UBND cấp tỉnh có văn bản yêu cầu tổ chức tín dụng cung cấp thông tin về tài khoản kinh doanh của chủ đầu tư và số tiền trong tài khoản này. Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản của UBND cấp tỉnh, tổ chức tín dụng có trách nhiệm cung cấp các thông tin liên quan cho UBND cấp tỉnh.

- Căn cứ vào thông tin do tổ chức tín dụng cung cấp, UBND cấp tỉnh ban hành Quyết định cưỡng chế thu hồi kinh phí từ tài khoản kinh doanh của chủ đầu tư để chuyển giao cho Ban quản trị nhà chung cư. Quyết định cưỡng chế này được gửi đến Sở Xây dựng, chủ đầu tư, Ban quản trị nhà chung cư và tổ chức tín dụng nơi chủ đầu tư mở tài khoản để thực hiện.

- Trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày nhận được Quyết định cưỡng chế, tổ chức tín dụng có trách nhiệm chuyển tiền từ tài khoản kinh doanh của chủ đầu tư sang tài khoản của Ban quản trị nhà chung cư theo đúng số tiền ghi trong Quyết định cưỡng chế. Sau khi hoàn tất việc chuyển tiền, tổ chức tín dụng phải có văn bản thông báo đến UBND cấp tỉnh, Sở Xây dựng, chủ đầu tư và Ban quản trị nhà chung cư biết.

Cưỡng chế kê biên tài sản của chủ đầu tư nếu không có kinh phí bàn giao

Nghị định cũng quy định thủ tục cưỡng chế kê biên tài sản của chủ đầu tư đối với trường hợp không có kinh phí để bàn giao được thực hiện như sau:

- Trường hợp chủ đầu tư có tài khoản kinh doanh nhưng không còn tiền hoặc không còn đủ tiền để khấu trừ thì UBND cấp tỉnh chỉ đạo Sở Xây dựng chủ trì, phối với cơ quan công an và cơ quan liên quan kiểm tra, xác định cụ thể diện tích nhà, đất của chủ đầu tư tại dự án nơi có nhà chung cư hoặc tại dự án khác để thực hiện việc kê biên và tổ chức bán đấu giá, thu hồi kinh phí bảo trì. Trường hợp chủ đầu tư không có diện tích nhà, đất hoặc có diện tích nhà, đất để kê biên nhưng không đủ giá trị để bán thu hồi kinh phí bảo trì thì thực hiện xác định tài sản khác của chủ đầu tư để bán đấu giá thu hồi đủ kinh phí chuyển giao cho Ban quản trị nhà chung cư.

UBND cấp tỉnh chỉ thực hiện kê biên diện tích nhà, đất hoặc tài sản khác có giá trị tương đương với số kinh phí bảo trì phải thu hồi để bàn giao cho Ban quản trị nhà chung cư và chi phí cho việc tổ chức thi hành cưỡng chế, bán đấu giá tài sản này.

- Trên cơ sở diện tích nhà, đất hoặc tài sản khác của chủ đầu tư đã được xác định theo quy định nêu trên, trong thời hạn 10 ngày, Sở Xây dựng phải có văn bản báo cáo UBND cấp tỉnh ban hành Quyết định cưỡng chế kê biên tài sản của chủ đầu tư để bán đấu giá thu hồi kinh phí bảo trì nhà chung cư. Trong Quyết định cưỡng chế kê biên tài sản phải nêu rõ căn cứ ban hành Quyết định, tên, trụ sở của chủ đầu tư thực hiện kê biên tài sản, số kinh phí bảo trì phải thu hồi, chủng loại, số lượng tài sản phải kê biên và địa điểm kê biên tài sản.

- Trình tự, thủ tục thực hiện kê biên tài sản, định giá tài sản kê biên, bán đấu giá tài sản kê biên để thu hồi kinh phí bảo trì được thực hiện theo quy định của pháp luật về cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, pháp luật về kê biên, bán đấu giá tài sản và pháp luật khác có liên quan.

- Việc bàn giao kinh phí bảo trì sau khi bán đấu giá tài sản phải lập thành biên bản có chữ ký xác nhận của các bên có liên quan. Trường hợp số tiền bán đấu giá tài sản nhiều hơn số kinh phí bảo trì phải bàn giao và chi phí cho việc thực hiện cưỡng chế bán đấu giá tài sản thì trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày bán đấu giá tài sản, Sở Xây dựng có trách nhiệm phối hợp với tổ chức bán đấu giá tài sản làm thủ tục trả lại phần giá trị chênh lệch cho chủ đầu tư có tài sản bị kê biên bán đấu giá.

Trong quá trình thực hiện cưỡng chế bàn giao kinh phí bảo trì cho Ban quản trị nhà chung cư, nếu phát hiện chủ đầu tư có hành vi vi phạm pháp luật hình sự thì UBND cấp tỉnh yêu cầu cơ quan có thẩm quyền điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật.

Quy định cơ chế quản lý tài chính dự án PPP

Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 28/2021/NĐ-CP quy định cơ chế quản lý tài chính dự án đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP).

Nghị định này quy định về cơ chế quản lý tài chính dự án đầu tư theo phương thức đối tác công tư gồm: Phương án tài chính của dự án PPP; phát hành trái phiếu của doanh nghiệp dự án PPP; quản lý, sử dụng vốn Nhà nước trong các dự án PPP; quyết toán vốn đầu tư công trình, hệ thống cơ sở hạ tầng hoàn thành; trình tự, thủ tục xử lý tài sản chuyển giao công trình, hệ thống cơ sở hạ tầng cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền; chia sẻ phần doanh thu tăng, giảm.

Trong đó, về nguyên tắc xây dựng phương án tài chính của dự án PPP, phương án tài chính của dự án PPP phải phản ánh đầy đủ các khoản chi phí và nguồn thu hợp pháp theo quy định trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư, thực hiện và vận hành của dự án PPP; các chỉ tiêu tài chính của phương án tài chính được tính toán trên cơ sở các dòng tiền sau thuế được chiết khấu theo tỷ suất chiết khấu bình quân gia quyền của lãi suất huy động các nguồn vốn và lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của nhà đầu tư; doanh thu thực tế là toàn bộ doanh thu từ việc cung cấp sản phẩm, dịch vụ công, không bao gồm thuế giá trị gia tăng; đồng tiền sử dụng trong phương án tài chính là Việt Nam Đồng.

Nghị định cũng quy định nguồn vốn thực hiện dự án PPP của nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP, trong đó, vốn chủ sở hữu của nhà đầu tư tham gia thực hiện dự án PPP là vốn chủ sở hữu của pháp nhân độc lập hoặc liên danh các pháp nhân độc lập thực tế góp vốn theo điều lệ của doanh nghiệp dự án PPP và phù hợp với quy định tại hợp đồng dự án PPP.

Nguồn vốn vay, nguồn vốn huy động từ phát hành trái phiếu doanh nghiệp và các nguồn vốn hợp pháp khác tính đến thời điểm đàm phán hợp đồng dự án được xác định trên cơ sở cam kết hoặc thoả thuận bằng văn bản giữa bên cho vay, nhà đầu tư mua trái phiếu hoặc tổ chức bảo lãnh phát hành trái phiếu và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP. Tổng số vốn cam kết cung cấp của bên cho vay vốn, nhà đầu tư mua trái phiếu hoặc tổ chức bảo lãnh phát hành trái phiếu tối thiểu bằng mức vốn nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP phải huy động.

Tổng số vốn vay, bao gồm vốn huy động từ phát hành trái phiếu doanh nghiệp và các hình thức vay vốn khác (nếu có) không vượt quá tổng số vốn vay theo quy định tại hợp đồng dự án PPP.

Doanh nghiệp dự án PPP chỉ được phát hành trái phiếu không chuyển đổi riêng lẻ, trái phiếu không kèm chứng quyền riêng lẻ sau khi đã ký hợp đồng dự án PPP.

Việc phát hành trái phiếu của doanh nghiệp dự án thực hiện theo quy định của Luật PPP và quy định tại Nghị định của Chính phủ về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ tại thị trường trong nước và chào bán trái phiếu ra thị trường quốc tế của công ty không phải là công ty đại chúng.

Giám sát, đánh giá các chương trình, dự án đầu tư

Chính phủ ban hành Nghị định số 29/2021/NĐ-CP quy định về trình tự, thủ tục thẩm định dự án quan trọng quốc gia và giám sát, đánh giá đầu tư.

Về giám sát, Nghị định quy định rõ trách nhiệm, nội dung giám sát, đánh giá đối với chương trình, dự án đầu tư công; dự án PPP; dự án đầu tư sử dụng vốn nhà nước ngoài đầu tư công; dự án đầu tư sử dụng nguồn vốn khác; dự án đầu tư ra nước ngoài.

Về chương trình đầu tư công, Nghị định quy định chủ chương trình, chủ dự án thành phần thực hiện theo dõi, kiểm tra quá trình đầu tư chương trình đầu tư công theo nội dung và các chỉ tiêu được phê duyệt nhằm bảo đảm mục tiêu và hiệu quả đầu tư.

Cơ quan chủ quản, người có thẩm quyền quyết định đầu tư chương trình thực hiện theo dõi, kiểm tra chương trình thuộc phạm vi quản lý. Việc kiểm tra được thực hiện như sau: Kiểm tra ít nhất một lần đối với chương trình có thời gian thực hiện trên 12 tháng; kiểm tra khi điều chỉnh chương trình làm thay đổi địa điểm, mục tiêu, quy mô, tăng tổng mức đầu tư.

Cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư công thực hiện theo dõi, kiểm tra chương trình thuộc phạm vi quản lý.

Cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư công, cơ quan chủ quản và người có thẩm quyền quyết định đầu tư chương trình quyết định tổ chức kiểm tra chương trình theo kế hoạch hoặc đột xuất.

Đối với dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư (dự án PPP) thì cơ quan ký kết hợp đồng dự án PPP và nhà đầu tư tự tổ chức thực hiện theo dõi, kiểm tra quá trình đầu tư dự án theo nội dung được phê duyệt và hợp đồng dự án.

Người có thẩm quyền phê duyệt dự án, cơ quan có thẩm quyền thực hiện theo dõi, kiểm tra dự án thuộc thẩm quyền. Việc kiểm tra được thực hiện như sau: Kiểm tra ít nhất một lần đối với các dự án do mình phê duyệt; kiểm tra khi điều chỉnh dự án làm thay đổi địa điểm, mục tiêu, quy mô, tăng tổng vốn đầu tư.

Cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư theo phương thức đối tác công tư, cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành thực hiện theo dõi, kiểm tra dự án thuộc phạm vi quản lý.

Cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư theo phương thức đối tác công tư, cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành, cơ quan có thẩm quyền và người có thẩm quyền phê duyệt dự án quyết định tổ chức kiểm tra dự án theo kế hoạch hoặc đột xuất.

Còn đối với dự án đầu tư sử dụng vốn nhà nước ngoài đầu tư công thì nhà đầu tư, tổ chức kinh tế tự tổ chức thực hiện theo dõi, kiểm tra dự án.

Cơ quan đăng ký đầu tư thực hiện theo dõi, kiểm tra dự án trong phạm vi quản lý. Việc kiểm tra được thực hiện ít nhất một lần đối với mỗi dự án.

Cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư và cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành thực hiện theo dõi, kiểm tra dự án trong phạm vi quản lý.

Cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư, cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành và cơ quan đăng ký đầu tư quyết định tổ chức kiểm tra dự án theo kế hoạch hoặc đột xuất.

Ngoài ra, Nghị định cũng nêu rõ, việc giám sát, đánh giá hoạt động đầu tư chứng khoán thực hiện theo quy định của pháp luật về chứng khoán.

Việc giám sát, đánh giá các chương trình, dự án sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài thực hiện theo quy định tại Nghị định này; những vấn đề khác biệt do đặc thù của việc sử dụng các nguồn vốn này, thực hiện theo quy định của pháp luật về quản lý và sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài và điều ước quốc tế liên quan.

Ðiều kiện sản xuất, kinh doanh giống cây trồng lâm nghiệp

Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 27/2021/NĐ-CP về quản lý giống cây trồng lâm nghiệp. Trong đó, Nghị định quy định rõ về điều kiện của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh giống cây trồng lâm nghiệp.

Theo quy định, tổ chức, cá nhân sản xuất giống cây trồng lâm nghiệp phải đáp ứng các điều kiện sau: Có hoặc thuê địa điểm, cơ sở hạ tầng, trang thiết bị theo tiêu chuẩn quốc gia về phương pháp sản xuất giống cây trồng lâm nghiệp; trường hợp chưa có tiêu chuẩn quốc gia thì áp dụng tiêu chuẩn cơ sở; sản xuất giống của loài cây trồng lâm nghiệp chính phải sử dụng vật liệu nhân giống từ giống, nguồn giống được công nhận.

Tổ chức, cá nhân kinh doanh giống cây trồng lâm nghiệp phải đáp ứng các điều kiện sau: Có địa điểm giao dịch hợp pháp; có hồ sơ bảo đảm truy xuất nguồn gốc lô giống, gồm: Thông tin về hợp đồng, hóa đơn mua bán lô giống; hồ sơ, nhãn phù hợp quy định tại Điều 18, Điều 19 Nghị định này; các thông tin về vật liệu nhân giống đã sử dụng, tiêu chuẩn công bố áp dụng, số lượng, thời gian giao nhận.

Trước khi sản xuất, kinh doanh giống cây trồng lâm nghiệp, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm gửi thông báo qua thư điện tử hoặc gửi trực tiếp hoặc gửi qua dịch vụ bưu chính tới Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sở tại các thông tin sau: Địa chỉ giao dịch, tên chủ cơ sở hoặc người đại diện hợp pháp, số điện thoại liên hệ để đăng tải trên cổng thông tin điện tử của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

Quản lý chặt chẽ theo chuỗi

Nghị định cũng nêu rõ công tác quản lý giống cây trồng lâm nghiệp phải đảm bảo nguyên tắc quản lý chặt chẽ theo chuỗi đối với giống các loài cây trồng lâm nghiệp chính, khuyến khích thực hiện đối với các giống cây trồng lâm nghiệp khác, để đảm bảo truy xuất nguồn gốc, nâng cao chất lượng giống.

Tổ chức, cá nhân được bảo hộ quyền đối với giống cây trồng lâm nghiệp theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ. Tổ chức, cá nhân chịu trách nhiệm về chất lượng giống cây trồng lâm nghiệp được nghiên cứu, chọn, tạo, sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp luật.

Nghị định nêu rõ, đối với giống của loài cây trồng lâm nghiệp chính: Chỉ đưa vào sản xuất, kinh doanh các giống, nguồn giống đã được công nhận.

Chất lượng giống cây trồng lâm nghiệp được quản lý trên cơ sở tiêu chuẩn quốc gia và tiêu chuẩn cơ sở về giống cây trồng lâm nghiệp.

Theo quy định, đối với lô hạt giống phải được thu hái từ nguồn giống được công nhận còn thời hạn sử dụng; chất lượng hạt giống đảm bảo theo tiêu chuẩn quốc gia về hạt giống.

Đối với cây giống trong bình mô phải sản xuất từ giống được công nhận, đảm bảo chất lượng theo tiêu chuẩn quốc gia về cây mầm mô.

Đối với hom giống, cành ghép, mắt ghép phải được lấy từ vườn cây đầu dòng, cây trội được công nhận còn thời hạn sử dụng, đảm bảo chất lượng theo tiêu chuẩn quốc gia về hom giống, cành ghép, mắt ghép.

Đối với lô cây giống phải được sản xuất từ cây trong bình mô hoặc giống được thu hái từ nguồn giống đã được công nhận, còn thời hạn sử dụng, bảo đảm chất lượng theo tiêu chuẩn quốc gia về cây giống.

Phê chuẩn nhân sự UBND 2 tỉnh

Thủ tướng Chính phủ vừa phê chuẩn kết quả bầu, miễn nhiệm Phó Chủ tịch UBND 2 tỉnh Nam Định và Hải Dương nhiệm kỳ 2016 - 2021.

Cụ thể, tại Quyết định 447/QĐ-TTg, Quyết định 448/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn kết quả bầu bổ sung chức vụ Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hải Dương nhiệm kỳ 2016-2021 đối với: Ông Trần Văn Quân, Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tỉnh Hải Dương và ông Nguyễn Minh Hùng, Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, tỉnh Hải Dương.

Đồng thời, tại Quyết định 445/QĐ-TTg, Quyết định 446/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn kết quả miễn nhiệm chức vụ Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hải Dương nhiệm kỳ 2016-2021 đối với: Ông Vương Đức Sáng, ông Lương Văn Cầu, để nghỉ công tác chờ đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định.

Tại Quyết định 456/QĐ-TTg, Quyết định 458/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn kết quả bầu bổ sung chức vụ Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nam Định nhiệm kỳ 2016 - 2021 đối với: Ông Trần Anh Dũng, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Nam Định và bà Hà Lan Anh, Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Công Thương tỉnh Nam Định.

Đồng thời, tại Quyết định 457/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn kết quả miễn nhiệm chức vụ Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nam Định nhiệm kỳ 2016 -2021 đối với ông Nguyễn Phùng Hoan, để nhận nhiệm vụ mới.

Đẩy mạnh xử lý, sử dụng tro, xỉ, thạch cao của nhà máy nhiệt điện, hóa chất

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc vừa ký Chỉ thị số 08/CT-TTg đẩy mạnh xử lý, sử dụng tro, xỉ, thạch cao của các nhà máy nhiệt điện, hóa chất, phân bón làm nguyên liệu sản xuất vật liệu xây dựng và trong công trình xây dựng.

Chỉ thị nêu rõ, trong thời gian qua, do nhiều nguyên nhân khác nhau, việc xử lý, tiêu thụ tro, xỉ, thạch cao vẫn chưa đạt được mục tiêu đề ra, lượng tiêu thụ chưa cân bằng với lượng phát thải, tổng khối lượng tro, xỉ, thạch cao lưu giữ tại bãi chứa của các nhà máy hiện còn rất lớn và vẫn tiếp tục tăng cao; nhiều bãi thải chỉ còn khả năng lưu chứa trong một vài năm tới.

Để khắc phục những tồn tại, hạn chế và tiếp tục đẩy mạnh việc xử lý, tiêu thụ tro, xỉ, thạch cao phát thải từ các nhà máy nhiệt điện, hóa chất, phân bón, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ Xây dựng chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tiếp tục chỉ đạo nghiên cứu các ứng dụng mới đối với sử dụng tro, xỉ, thạch cao; tiếp tục rà soát, bổ sung, hoàn thiện các tiêu chuẩn kỹ thuật, quy chuẩn kỹ thuật, hướng dẫn kỹ thuật, định mức kinh tế kỹ thuật về việc xử lý, sử dụng tro, xỉ, thạch cao làm nguyên liệu sản xuất vật liệu xây dựng và sử dụng trong các công trình xây dựng.

Tiếp tục chỉ đạo các nhà máy xi măng, các trạm nghiền xi măng tăng cường sử dụng tro, xỉ, thạch cao làm phụ gia; tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền việc tiêu thụ tro, xỉ, thạch cao, đẩy mạnh việc sử dụng các sản phẩm vật liệu xây dựng có sử dụng tro, xỉ, thạch cao làm phụ gia hoặc nguyên liệu.

Bộ Công Thương chủ trì tổ chức kiểm tra việc thực hiện đề án xử lý tro, xỉ, thạch cao do các cơ sở phát thải lập và phê duyệt, đảm bảo yêu cầu lượng thải chứa trong bãi không vượt quá 2 năm sản xuất theo công suất thiết kế; yêu cầu các chủ đầu tư dự án nhiệt điện đốt than trong quá trình lập dự án đầu tư phải lựa chọn thiết bị công nghệ và nhiên liệu theo hướng tiết kiệm nhiên liệu; tro, xỉ thải ra đảm bảo tiêu chuẩn làm vật liệu xây dựng.

Tăng cường kiểm tra công tác bảo vệ môi trường

Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành hướng dẫn việc đồng xử lý tro, xỉ, thạch cao trong sản xuất vật liệu xây dựng; coi việc sử dụng tro, xỉ, thạch cao vào sản xuất vật liệu xây dựng là quá trình xử lý tro, xỉ, thạch cao. Thời hạn hoàn thành trước ngày 31 tháng 12 năm 2021.

Ban hành quy chuẩn kỹ thuật, hướng dẫn kỹ thuật về xử lý, sử dụng tro, xỉ, thạch cao để hoàn nguyên các khu vực đã kết thúc khai thác khoáng sản theo quy định của pháp luật về khoáng sản và đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường. Thời hạn hoàn thành trước ngày 30 tháng 6 năm 2022; ban hành hướng dẫn việc chôn lấp tro, xỉ, thạch cao trong trường hợp tro, xỉ, thạch cao không thể sử dụng, tái chế. Thời hạn hoàn thành trước ngày 30 tháng 6 năm 2022.

Đồng thời, tăng cường giám sát, kiểm tra, thanh tra về công tác bảo vệ môi trường; việc thực hiện các cam kết trong báo cáo đánh giá tác động môi trường và thực hiện các quy định của pháp luật về môi trường tại các cơ sở phát thải tro, xỉ, thạch cao.

Hỗ trợ nghiên cứu sử dụng tro, xỉ, thạch cao làm nguyên liệu phục vụ sản xuất

Thủ tướng cũng yêu cầu Bộ Giao thông vận tải tiếp tục chỉ đạo các chủ đầu tư các công trình, dự án sử dụng vốn đầu tư công hoặc vốn nhà nước ngoài đầu tư công ưu tiên sử dụng tro, xỉ vào các dự án giao thông.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nghiên cứu khả năng sử dụng bã thạch cao PG làm nguyên liệu sản xuất phân bón, thời hạn hoàn thành trước ngày 31 tháng 12 năm 2022. Tiếp tục chỉ đạo các chủ đầu tư sử dụng vốn đầu tư công hoặc vốn nhà nước ngoài đầu tư công ưu tiên sử dụng tro, xỉ, thạch cao vào các công trình do bộ quản lý.

Bộ Khoa học và Công nghệ tiếp tục ưu tiên, hỗ trợ triển khai các nhiệm vụ khoa học và công nghệ về nghiên cứu sử dụng tro, xỉ, thạch cao làm nguyên liệu phục vụ các ngành, lĩnh vực sản xuất.

Không cấp phép mở rộng các bãi thải tro, xỉ, thạch cao đã phê duyệt

Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ưu tiên các nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp tỉnh về nghiên cứu sử dụng tro, xỉ, thạch cao làm nguyên liệu sản xuất vật liệu xây dựng và sử dụng trong công trình xây dựng; tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích các doanh nghiệp trên địa bàn tham gia xử lý, sử dụng tro, xỉ, thạch cao làm nguyên liệu sản xuất vật liệu xây dựng và trong công trình xây dựng.

Thủ tướng yêu cầu UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chỉ cấp diện tích bãi thải cho các dự án nhà máy sản xuất nhiệt điện, phân bón, hóa chất với dung lượng chứa tối đa cho 2 năm sản xuất theo công suất thiết kế. Không cấp phép mở rộng các bãi thải tro, xỉ, thạch cao đã được phê duyệt trước đây.

UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chỉ đạo các cơ quan chức năng tại địa phương tăng cường giám sát, kiểm tra, thanh tra công tác quản lý, sử dụng tro, xỉ, thạch cao. Kiểm tra, giám sát việc thực hiện các cam kết trong báo cáo đánh giá tác động môi trường và thực hiện các quy định của pháp luật về môi trường tại các cơ sở phát thải tro, xỉ, thạch cao.

Công bố công khai các cơ sở phát thải không thực hiện cam kết trong báo cáo đánh giá tác động môi trường và không thực hiện đúng các nội dung trong đề án xử lý, tiêu thụ tro, xỉ, thạch cao mà các cơ sở phát thải đã lập và phê duyệt.

Chủ cơ sở phát thải chịu trách nhiệm tổ chức xử lý, tiêu thụ tro, xỉ, thạch cao

Thủ tướng yêu cầu các chủ cơ sở phát thải chịu trách nhiệm tổ chức xử lý, tiêu thụ tro, xỉ, thạch cao phát sinh trong quá trình sản xuất; có các giải pháp hữu hiệu thực hiện các cam kết trong báo cáo đánh giá tác động môi trường và pháp luật về bảo vệ môi trường.

Căn cứ vào yêu cầu của tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia và hướng dẫn kỹ thuật có liên quan để phân loại rõ tro, xỉ, thạch cao trước khi cung cấp cho cơ sở sử dụng.

Công bố công khai các chính sách khuyến khích xử lý, sử dụng tro, xỉ, thạch cao để thu hút, thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp xử lý, sử dụng tro, xỉ, thạch cao tiếp cận nguồn phát thải.

Trước ngày 31 tháng 12 hàng năm, báo cáo Bộ Công Thương, Bộ Xây dựng và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi nhà máy đóng trên địa bàn kết quả thực hiện đề án xử lý và tiêu thụ tro, xỉ, thạch cao do đơn vị lập và phê duyệt, bao gồm các thông tin: lượng phát thải, khối lượng tiêu thụ theo từng lĩnh vực trong năm (sản xuất vật liệu xây, xi măng, vật liệu san lấp...); tổng khối lượng tro, xỉ, thạch cao tồn đọng tại bãi chứa.

Gỡ vướng giải phóng mặt bằng công trình đường dây 500 kV mạch 3

Thủ tướng Chính phủ vừa có Công điện yêu cầu Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố: Đà Nẵng, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam và Quảng Ngãi, Tập đoàn Điện lực Việt Nam giải quyết vướng mắc trong công tác bồi thường giải phóng mặt bằng các công trình đường dây 500 kV mạch 3.

Công điện nêu rõ:

Để bảo đảm tiến độ hoàn thành, sớm đưa vào vận hành các công trình đường dây 500 kV Nhiệt điện Quảng Trạch - Vũng Áng và Sân phân phối 500 kV Trung tâm Điện lực Quảng Trạch, Quảng Trạch - Dốc Sỏi và Dốc Sỏi - Pleiku 2, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu:

1. Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi trực tiếp chỉ đạo các Sở, ngành, các cấp chính quyền địa phương sớm hoàn thành bàn giao mặt bằng hành lang tuyến còn lại của Dự án đường dây 500 kV Dốc Sỏi - Pleiku 2 trước ngày 15 tháng 4 năm 2021.

2. Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh: Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi và thành phố Đà Nẵng trực tiếp chỉ đạo các Sở, ngành, các cấp chính quyền địa phương hoàn thành bàn giao mặt bằng móng trước ngày 30 tháng 4 năm 2021 và bàn giao xong mặt bằng hành lang tuyến trước ngày 15 tháng 5 năm 2021 của Dự án đường dây 500 kV Nhiệt điện Quảng Trạch - Vũng Áng và Sân phân phối 500 kV Trung tâm điện lực Quảng Trạch, Dự án đường dây 500 kV Quảng Trạch - Dốc Sỏi.

3. Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố khẩn trương hoàn thành các nhiệm vụ nêu trên; có biện pháp xử lý cương quyết đối với những trường hợp cố tình cản trở và tạo điều kiện tối đa để Tập đoàn Điện lực Việt Nam thi công hoàn thành công trình, sớm đưa vào vận hành theo kế hoạch.

Giải quyết TTHC theo hướng không phụ thuộc vào địa giới hành chính

Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt Đề án đổi mới việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính.

Mục tiêu của Đề án nhằm đổi mới việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính theo hướng không phụ thuộc vào địa giới hành chính, gắn với số hóa và sử dụng kết quả số hóa hồ sơ, giấy tờ, kết quả giải quyết thủ tục hành chính nhằm nâng cao chất lượng phục vụ, tăng năng suất lao động, góp phần hình thành công dân số, doanh nghiệp số trong xây dựng Chính phủ số, nền kinh tế số, xã hội số.

100% Trung tâm phục vụ hành chính công triển khai số hóa hồ sơ

Đề án phấn đấu năm 2021, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quy định về việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính; hoàn thành kết nối, chia sẻ dữ liệu từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và đăng ký doanh nghiệp với Cổng Dịch vụ công quốc gia, Hệ thống thông tin một cửa điện tử cấp bộ, cấp tỉnh phục vụ xác thực, định danh và cắt giảm, đơn giản hóa hồ sơ, giấy tờ công dân, doanh nghiệp trong giải quyết thủ tục hành chính tại Bộ phận Một cửa các cấp.

Hoàn thành việc số hóa kết quả giải quyết thủ tục hành chính còn hiệu lực đạt tối thiểu tương ứng 40%, 30%, 20%, 15% đối với kết quả thuộc thẩm quyền giải quyết của cấp trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã để đảm bảo việc kết nối chia sẻ dữ liệu trong giải quyết thủ tục hành chính trên môi trường điện tử; tổ chức triển khai quy trình số hóa hồ sơ, giấy tờ, kết quả giải quyết thủ tục hành chính tại 100% Trung tâm phục vụ hành chính công.

Tạo lập Hệ thống thông tin giải quyết TTHC cấp bộ, cấp tỉnh

Nội dung đổi mới thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính là gắn kết việc số hoá hồ sơ, giấy tờ, kết quả giải quyết thủ tục hành chính với quá trình tiếp nhận, xử lý thủ tục hành chính tại Bộ phận Một cửa tạo cơ sở hình thành dữ liệu sống, sạch, đủ và chính xác; đổi mới tổ chức quản lý, kết nối, chia sẻ dữ liệu phục vụ việc đơn giản hoá trong chuẩn bị, tiếp nhận, giải quyết hồ sơ thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông; mở rộng việc tiếp nhận, giải quyết hồ sơ thủ tục hành chính theo hướng không phụ thuộc vào địa giới hành chính trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin trong thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông; nâng cao tính chủ động trong đổi mới, nâng cao hiệu quả, năng suất lao động của Bộ phận Một cửa; đổi mới việc giám sát, đánh giá chất lượng giải quyết thủ tục hành chính theo thời gian thực trên cơ sở ứng dụng công nghệ mới.

Trong đó, Đề án triển khai Hợp nhất Cổng Dịch vụ công với Hệ thống thông tin một cửa điện tử cấp bộ, cấp tỉnh để tạo lập Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính cấp bộ, cấp tỉnh là lõi của Bộ phận Một cửa các cấp nhằm thống nhất, liên thông giữa các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương.

Tổ chức kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành, hệ thống thông tin cung cấp dịch vụ công của bộ, ngành, địa phương với Cổng Dịch vụ công quốc gia, hệ thống thông tin một cửa điện tử cấp bộ, cấp tỉnh qua Trục liên thông văn bản quốc gia phục vụ giải quyết thủ tục hành chính bảo đảm tính liên tục, thống nhất, thuận lợi, đơn giản, đồng bộ, toàn vẹn dữ liệu, tránh lãng phí trong suốt quá trình từ khâu tiếp nhận, xử lý đến trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính.

Cụ thể, kết nối, chia sẻ đồng bộ trạng thái, kết quả xử lý hồ sơ giữa các hệ thống thông tin cung cấp dịch vụ công của bộ, ngành, địa phương với Cổng Dịch vụ công quốc gia, Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính cấp bộ, cấp tỉnh phục vụ theo dõi, giám sát, đánh giá; kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành với Cổng Dịch vụ công quốc gia, hệ thống một cửa điện tử cấp bộ, cấp tỉnh phục vụ giải quyết thủ tục hành chính, nhất là cắt giảm, đơn giản hóa trong chuẩn bị, tiếp nhận, giải quyết hồ sơ thủ tục hành chính…

Thành lập Hội đồng tiền lương quốc gia

Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định thành lập Hội đồng tiền lương quốc gia. Ông Lê Văn Thanh, Thứ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội làm Chủ tịch Hội đồng.

3 Phó Chủ tịch Hội đồng gồm: Phó Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam Ngọ Duy Hiểu; Phó Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam Hoàng Quang Phòng; Phó Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam Nguyễn Văn Thịnh.

Các thành viên Hội đồng còn lại, gồm: 4 thành viên đại diện của của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội; 4 thành viên đại diện của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam; 3 thành viên đại diện của tổ chức đại diện người sử dụng lao động ở trung ương (gồm 1 thành viên đại diện của Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, 2 thành viên là đại diện của hai hiệp hội ngành nghề ở trung ương có sử dụng nhiều lao động); 2 thành viên độc lập là chuyên gia, nhà khoa học trong lĩnh vực lao động, tiền lương, kinh tế - xã hội (không bao gồm chuyên gia, nhà khoa học đang công tác tại cơ quan, đơn vị, viện nghiên cứu, trường đại học thuộc Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và tổ chức đại diện người sử dụng lao động ở trung ương) (*).

Thủ tướng Chính phủ ủy quyền Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội bổ nhiệm, miễn nhiệm các thành viên Hội đồng tại (*) nêu trên.

Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các thành viên Hội đồng làm việc theo chế độ kiêm nhiệm, nhiệm kỳ bổ nhiệm thành viên không quá 5 năm.

Hội đồng tiền lương quốc gia thực hiện chức năng, nhiệm vụ và hoạt động theo quy định tại Điều 49, Điều 50, Điều 53 Nghị định số 145/2020/NĐ-CP, trong đó, Hội đồng tiền lương quốc gia có nhiệm vụ nghiên cứu, khảo sát, thu thập thông tin, phân tích và đánh giá tình hình tiền lương, mức sống tối thiểu của người lao động, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, quan hệ cung cầu lao động, việc làm, thất nghiệp trong nền kinh tế và các yếu tố liên quan khác làm cơ sở xác định mức lương tối thiểu.

Bên cạnh đó, xây dựng báo cáo về mức lương tối thiểu của người lao động gắn với các yếu tố xác định mức lương tối thiểu; rà soát mức sống tối thiểu của người lao động và gia đình người lao động, phân vùng địa bàn áp dụng lương tối thiểu làm cơ sở xác định phương án điều chỉnh mức lương tối thiểu theo từng thời kỳ; hằng năm, tổ chức thương lượng để khuyến nghị với Chính phủ phương án điều chỉnh mức lương tối thiểu xác lập theo vùng (bao gồm mức lương tối thiểu theo tháng và mức lương tối thiểu theo giờ).

Đồng thời, tư vấn, khuyến nghị với Chính phủ về một số chính sách tiền lương áp dụng chung đối với người lao động trong các loại hình doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, hợp tác xã theo quy định của Bộ luật Lao động.

Tăng cường bảo vệ, phát triển rừng ngay từ đầu năm 2021

Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc giao Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với các Bộ: Xây dựng, Tài nguyên và Môi trường và các cơ quan liên quan chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra các địa phương thực hiện Chỉ thị số 45/CT-TTg ngày 31/12/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức phong trào "Tết trồng cây" và tăng cường công tác bảo vệ, phát triển rừng ngay từ đầu năm 2021.

Ngày 3/3/2021, Đại biểu Quốc hội Lưu Bình Nhưỡng có thư gửi Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, trong đó đề nghị Thủ tướng Chính phủ: chỉ đạo tiếp tục truyền thông, quán triệt đầy đủ, sâu sắc tinh thần của Chỉ thị số 45/CT-TTg ngày 31/12/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức phong trào "Tết trồng cây" và tăng cường công tác bảo vệ, phát triển rừng ngay từ đầu năm 2021; xây dựng Đề án trồng một tỷ cây xanh.

Về vấn đề này, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc giao Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với các Bộ: Xây dựng, Tài nguyên và Môi trường và các cơ quan liên quan:

- Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra các địa phương thực hiện Chỉ thị số 45/CT-TTg ngày 31/12/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức phong trào "Tết trồng cây" và tăng cường công tác bảo vệ, phát triển rừng ngay từ đầu năm 2021.

- Nghiên cứu ý kiến của Đại biểu Lưu Bình Nhưỡng để hoàn thiện Đề án trồng 1 tỷ cây xanh.

* Tại Chỉ thị số 45/CT-TTg ngày 31/12/2020, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có kế hoạch thực hiện Chương trình trồng 1 tỷ cây thành phong trào thi đua của mọi cấp, mọi ngành, trong từng khu dân cư với sự tham gia của mọi người dân; tập trung ở địa bàn đô thị, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế khác, khu dân cư tập trung, khu văn hóa - lịch sử, khu tưởng niệm, hành lang giao thông, kết hợp phòng hộ trong khu canh tác nông nghiệp.... Chỉ tiêu này không bao gồm cây trong rừng thay thế và cây trồng rừng tái canh sau khai thác gỗ. Ưu tiên lựa chọn loài cây trồng gỗ lớn, lâu năm, đa mục tiêu, gắn với nhiệm vụ, giải pháp thực hiện Chiến lược phát triển lâm nghiệp và mục tiêu phát triển bền vững của đất nước. Hàng năm, tổ chức giám sát, đánh giá, rút kinh nghiệm, kịp thời giải quyết vướng mắc, nhân rộng mô hình tốt, đảm bảo thực hiện chương trình thành công.

Thực hiện Chỉ thị số 45/CT-TTg ngày 31/12/2020 của Thủ tướng Chính phủ, Bến Tre là tỉnh đầu tiên hưởng ứng sáng kiến trồng 1 tỷ cây xanh của Thủ tướng bằng việc phối hợp cùng Cổng TTĐT Chính phủ tổ chức thành công lễ phát động Đề án trồng 10 triệu cây xanh trên địa bàn tỉnh từ nguồn xã hội hóa vào ngày 2/1/2021.

Tiếp theo tỉnh Bến Tre, nhiều tỉnh cũng đã tổ chức Lễ phát động Chương trình trồng 1 tỷ cây xanh "Vì một Việt Nam xanh" và hưởng ứng Tết trồng cây Xuân Tân Sửu năm 2021 như: Phú Yên, Tuyên Quang, Nghệ An,...

Khắc phục tình trạng “bắn chỉ thiên”, “trên bảo dưới không nghe”

Khắc phục tình trạng “bắn chỉ thiên”, “trên bảo dưới không nghe”, Tổ công tác của Thủ tướng Chính phủ kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ, kết luận, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ (Tổ công tác) đã tạo ra sự chuyến biến tích cực trên các lĩnh vực công tác.

Kết thúc nhiệm kỳ Chính phủ 2011 - 2016, tình hình thực hiện nhiệm vụ, công việc Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao có nhiều hạn chế, trong đó tỷ lệ quá hạn thực hiện nhiệm vụ cao, nhiều nhiệm vụ, chỉ đạo quan trọng liên quan đến thể chế, an sinh xã hội, thúc đẩy tăng trưởng chậm được triển khai; kỷ luật, kỷ cương hành chính chưa nghiêm; nhiều cơ chế, chính sách chậm đi vào cuộc sống, đã ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân và doanh nghiệp. Để khắc phục tình trạng “bắn chỉ thiên”, “trên bảo dưới không nghe” với tinh thần thắt chặt kỷ cương, phép nước, bảo đảm tất cả các nhiệm vụ giao phải thực hiện nghiêm túc, không để chậm trễ, bỏ sót việc, ngày 19/8/2016, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định 1642/QĐ-TTg thành lập Tổ công tác của Thủ tướng Chính phủ kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ, kết luận, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ (Tổ công tác) để giúp Thủ tướng Chính phủ kiểm tra, đánh giá toàn diện việc thực hiện nhiệm vụ giao của các bộ, cơ quan, địa phương; kịp thời phát hiện những khó khăn, vướng mắc, tồn tại, hạn chế để tham mưu, đề xuất với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ hướng giải quyết, kể cả việc kiến nghị các biện pháp xử lý vi phạm theo quy định (nếu có) với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.

Với sự cố gắng, nỗ lực, tận tâm, Tổ công tác đã hoàn thành tốt nhiệm vụ được Thủ tướng Chính phủ giao, trong đó đã tạo ra sự chuyến biến tích cực trên các lĩnh vực công tác.

Cụ thể, tình trạng nợ đọng nhiệm vụ giao được chấn chỉnh và chuyển biến rất tích cực. Đến hết năm 2020, số nhiệm vụ quá hạn chỉ chiếm 1,8% - giảm 23,4% so với đầu nhiệm kỳ Chính phủ -  thời điểm Tổ công tác chưa thành lập. Cả nhiệm kỳ Chính phủ 2016 - 2021 (hết tháng 02/2021), chỉ còn 12/2.504 đề án chưa trình, chiếm 0,5% - bằng 1/4 so với cuối nhiệm kỳ trước (cuối nhiệm kỳ 2011 - 2016, số đề án nợ đọng chiếm tỷ lệ 2,26%). 

Các cuộc kiểm tra, đôn đốn của Tổ công tác đã kịp thời góp phần tích cực đưa các giải pháp, chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ thành những kết quả cụ thể, đi vào cuộc sống, góp phần quan trọng vào tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Hoạt động của Tổ công tác đã được Hội nghị Trung ương 6 khóa XII đánh giá: Việc thành lập Tổ công tác là cần thiết; Tổ hoạt động quyết liệt, không ngại va chạm, đem lại hiệu quả tích cực. Đây là điểm sáng nhất cần phải đánh giá rõ và nhấn mạnh hơn.

Qua các buổi kiểm tra, nhiều vấn đề tồn tại, bất cập, khó khăn, vướng mắc đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh chậm được xử lý, giải quyết có liên quan đến công tác chỉ đạo, điều hành của các bộ, cơ quan địa phương làm dư luận quan tâm, bức xúc, ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân đã được Tổ công tác chỉ ra và báo cáo, kiến nghị kịp thời với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ có quyết sách, biện pháp xử lý kịp thời, góp phần bảo đảm an ninh trật tự, giữ vững kỷ cương phép nước.

Tổ công tác đã có nhiều đề xuất, kiến nghị Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các bộ, cơ quan, địa phương đẩy nhanh tiến độ xây dựng, ban hành văn bản quy định chi tiết luật, nghị quyết, pháp lệnh; góp phần hoàn thiện thể chế, chính sách.

Các cuộc kiểm tra chuyên đề về kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa xuất nhập khẩu, đơn giản hóa, cắt giảm điều kiện kinh doanh, xây dựng Chính phủ điện tử, cải cách thủ tục hành chính có hiệu quả rất tích cực và lan tỏa mạnh mẽ, tạo chuyển biến quan trọng cả về chất và lượng trong cải cách và thực thi của các bộ, cơ quan, địa phương; góp phần cải tiến lề lối, phương thức làm việc của các cơ quan hành chính nhà nước, loại bỏ tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực, tham nhũng vặt…

Với những kết quả đã đạt được, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc yêu cầu từ nay đến hết nhiệm kỳ Chính phủ 2016 - 2021, Tổ công tác phải tập trung theo dõi, đôn đốc, kiểm tra các bộ, cơ quan, địa phương trong việc thực hiện nhiệm vụ giao, nhất là trong công tác hoàn thiện thể chế, chính sách; tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo thuận lợi, thúc đẩy phát triển; việc xây dựng, trình các đề án, nhiệm vụ trong Chương trình làm việc của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và trong Chương trình công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, bảo đảm các nhiệm vụ, đề án phải được thực hiện chất lượng, đúng tiến độ, yêu cầu chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, không để chậm, nợ.

Trong quá trình hoạt động, Tổ công tác phải bám sát yêu cầu chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, thực tiễn tình hình thực hiện nhiệm vụ giao của các bộ, cơ quan, địa phương để xác định nội dung, vấn đề trọng tâm cần đôn đốc, kiểm tra.

Tổ công tác tiếp tục hoàn thiện, đổi mới phương thức, cách thức hoạt động và ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin, đáp ứng yêu cầu chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong tình hình mới và yêu cầu của thực tiễn, bảo đảm hoạt động hiệu quả, phục vụ tốt hơn công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và trong việc thắt chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính, nâng cao chất lượng thực thi công vụ…

Quản lý xe ô tô được hưởng quyền ưu đãi nhưng chưa làm thủ tục chuyển nhượng

Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Quyết định số 14/2021/QĐ-TTg sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 53/2013/QĐ-TTg ngày 13/9/2013 quy định về việc tạm nhập khẩu, tái xuất khẩu, tiêu hủy, chuyển nhượng đối với xe ô tô, xe hai bánh gắn máy của đối tượng được hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ tại Việt Nam.

Trong đó, Quyết định bổ sung Điều 9a quy định về quản lý đối với xe ô tô tạm nhập khẩu miễn thuế của đối tượng được hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ tại Việt Nam đã bán, cho, biếu, tặng cho tổ chức, cá nhân khác tại Việt Nam nhưng chưa làm thủ tục chuyển nhượng theo quy định của pháp luật.

Cụ thể, xe ô tô tạm nhập khẩu miễn thuế của đối tượng được hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ tại Việt Nam đã bán, cho, biếu, tặng cho tổ chức, cá nhân khác tại Việt Nam nhưng chưa thực hiện thủ tục chuyển nhượng theo quy định của pháp luật và thuộc danh sách xe do Bộ Tài chính thông báo (xe chưa làm thủ tục chuyển nhượng), cụ thể:

- Đối với xe của cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự và cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế có trụ sở tại Việt Nam được hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập, xe thuộc danh sách do cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự, cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế (cơ quan đại diện) có trụ sở tại Việt Nam xác nhận không còn quản lý, sử dụng với Bộ Ngoại giao Việt Nam.

- Đối với xe của viên chức ngoại giao thuộc cơ quan đại diện ngoại giao, viên chức lãnh sự thuộc cơ quan lãnh sự, viên chức thuộc cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế có trụ sở tại Việt Nam được hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập; nhân viên hành chính kỹ thuật thuộc cơ quan đại diện ngoại giao và cơ quan lãnh sự được hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ trên nguyên tắc có đi có lại giữa nhà nước Việt Nam và nước cử; nhân viên thuộc cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế có trụ sở tại Việt Nam được hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập, xe thuộc danh sách do cơ quan đại diện ngoại giao nơi cá nhân được hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ công tác xác nhận với Bộ Ngoại giao Việt Nam về việc các cá nhân này đã kết thúc nhiệm kỳ công tác tại Việt Nam và không ủy quyền cho cơ quan nơi công tác quản lý thực hiện chuyển nhượng hoặc tái xuất hoặc tiêu hủy xe.

Người đang quản lý, sử dụng xe thực hiện thủ tục thu hồi giấy chứng nhận đăng ký, biển số xe, thủ tục chuyển nhượng xe theo quy định.

Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ Công an thực hiện rà soát thông tin người đang đứng tên trên giấy chứng nhận đăng ký xe đối với số xe chưa làm thủ tục chuyển nhượng và chuyển cho Bộ Tài chính.

Bên cạnh đó, chỉ đạo cơ quan cảnh sát giao thông qua tuần tra kiểm soát, xử lý vi phạm; chỉ huy điều khiển giao thông; đăng ký xe; điều tra giải quyết tai nạn giao thông, khi phát hiện xe ô tô chưa làm thủ tục chuyển nhượng thuộc danh sách do Bộ Tài chính thông báo tham gia giao thông thì căn cứ vào quy định của pháp luật thực hiện xử lý vi phạm.

Trường hợp người đang quản lý, sử dụng xe chứng minh được nguồn gốc xuất xứ của phương tiện (chứng từ quyền sở hữu xe hoặc giấy tờ, chứng từ nguồn gốc xe hợp pháp) thì hướng dẫn người đang quản lý, sử dụng xe thực hiện thủ tục thu hồi giấy chứng nhận đăng ký, biển số tại cơ quan công an và đến Cục Hải quan tỉnh, thành phố thuận tiện để thực hiện thủ tục chuyển nhượng theo quy định.

Quyết định số 14/2021/QĐ-TTg có hiệu lực từ ngày 15/5/2021. Bãi bỏ Quyết định số 10/2018/QĐ-TTg ngày 1/3/2018 của Thủ tướng Chính phủ.

Đẩy mạnh tuyên truyền, nhân rộng điển hình tiên tiến

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nhân rộng các phong trào thi đua thiết thực, hiệu quả, các mô hình, điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt.

Văn phòng Chính phủ vừa có Thông báo số 63/TB-VPCP kết luận của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tại phiên họp lần thứ 77 của Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương.

Thông báo nêu rõ, các phong trào thi đua với nòng cốt là 04 Phong trào do Thủ tướng Chính phủ phát động tiếp tục được triển khai thực hiện với nhiều đổi mới, sáng tạo, bám sát nhiệm vụ chính trị được giao.

Công tác khen thưởng được các cấp, các ngành quan tâm chỉ đạo, chủ động, kịp thời phát hiện và khen thưởng cho các cá nhân, tập thể tiêu biểu, có thành tích, có đóng góp cho xã hội, người lao động trực tiếp.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác thi đua, khen thưởng năm 2020 còn có những hạn chế. Nội dung các phong trào thi đua chưa phong phú, thiết thực. Công tác kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết, công tác phát hiện các điển hình là tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua để biểu dương, khen thưởng, nhân rộng có lúc, có nơi chưa kịp thời. Việc khen thưởng cho công nhân, nông dân, người lao động trực tiếp tuy đã có sự chuyển biến nhưng chưa đồng đều ở các bộ, ngành, địa phương.

Năm 2021, năm đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 05 năm 2021-2025, bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026. Thực hiện chủ đề “Đoàn kết, sáng tạo, thi đua xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, phong trào thi đua và công tác khen thưởng năm 2021 cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm.

Cụ thể, tổ chức phát động phong trào thi đua thiết thực, hiệu quả, bám sát nội dung định hướng, chỉ đạo của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước và 05 nội dung thi đua do Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương phát động tại Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ X, hướng phong trào thi đua vào việc thực hiện có hiệu quả 06 nhiệm vụ trọng tâm, 03 đột phá chiến lược, các mục tiêu, chỉ tiêu định hướng phát triển kinh tế, xã hội của đất nước đã đề ra trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, gắn với nhiệm vụ chính trị của từng bộ, ngành, địa phương. Tổng kết phong trào “Doanh nghiệp Việt Nam hội nhập và phát triển” để đánh giá, rút kinh nghiệm trong việc phát động, tổ chức các phong trào thi đua mới trong giai đoạn tiếp theo.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nhân rộng các phong trào thi đua thiết thực, hiệu quả, các mô hình, điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt. Phát huy vai trò tích cực các cơ quan truyền thông, báo chí trong phát hiện, tuyên truyền, nhân rộng các tập thể, cá nhân tiêu biểu xuất sắc, nhất là các điển hình phòng chống dịch bệnh, phòng chống tham nhũng, những tấm gương có thành tích xuất sắc trong công tác, lao động, học tập, các tập thể, cá nhân Anh hùng Lao động, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.

Nâng cao chất lượng, đổi mới hoạt động của Hội đồng Thi đua - Khen thưởng các cấp, phát huy vai trò, trách nhiệm của các Thành viên Hội đồng trong việc tham mưu cho cấp ủy, chính quyền và kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về thi đua, khen thưởng, nhằm nâng cao chất lượng các phong trào thi đua và công tác khen thưởng.

Tiếp tục củng cố kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác thi đua

Thực hiện công tác khen thưởng bảo đảm đúng quy định, kịp thời, công khai, minh bạch. Tập thể, cá nhân được khen thưởng phải thực sự tiêu biểu, nỗ lực phấn đấu, đổi mới, sáng tạo, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Nâng cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu trong việc phát hiện, biểu dương, khen thưởng tập thể, cá nhân có thành tích đột xuất, cá nhân dũng cảm cứu người, cứu tài sản, khen thưởng cho công nhân, nông dân, người lao động...

Tiếp tục củng cố kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác thi đua, khen thưởng các cấp theo hướng ổn định, thống nhất từ Trung ương đến địa phương, tinh gọn, hiệu quả, theo tinh thần Chỉ thị số 34-CT/TW của Bộ Chính trị; xây dựng đội ngũ công chức làm công tác thi đua, khen thưởng bảo đảm chất lượng, có phẩm chất chính trị, tinh thông về nghiệp vụ, có năng lực tham mưu, nghiên cứu, thực hiện tốt vai trò tham mưu thực hiện công tác thi đua, khen thưởng, đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay, chống tiêu cực, nhũng nhiễu.

Bộ Nội vụ tập trung công tác xây dựng thể chế, khẩn trương hoàn thiện Dự án Luật Thi đua, khen thưởng (sửa đổi), bảo đảm chất lượng, tiến độ; chủ động nắm bắt, giải quyết kịp thời những vướng mắc, bất cập phát sinh trong công tác thi đua, khen thưởng, đặc biệt trong việc cấp đổi, cấp lại hiện vật khen thưởng; báo cáo việc kiện toàn Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương theo quy định.

Kiểm tra, xử lý phản ánh “om đất” ở Quảng Bình

Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và UBND tỉnh Quảng Bình kiểm tra, xử lý kịp thời phản ánh “om đất” ở tỉnh Quảng Bình.

Báo Pháp luật Plus ngày 18/3/2021 có bài viết: “Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Bình có “om đất” của doanh nghiệp”.

Bài viết phản ánh: Mặc dù đã trúng thầu và ký kết hợp đồng 3 bên, tuy nhiên doanh nghiệp vẫn không được bàn giao đất để thực hiện dự án…

Về phản ánh trên, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và UBND tỉnh Quảng Bình kiểm tra, xử lý kịp thời các vướng mắc của doanh nghiệp.

Không lập Đề án kết nối hạ tầng giao thông vùng KTTĐ phía Nam

Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đồng ý Bộ Giao thông vận tải không triển khai lập Đề án chi tiết kết nối kết cấu hạ tầng giao thông trọng điểm vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.

Thủ tướng yêu cầu Bộ Giao thông vận tải khẩn trương lập các quy hoạch ngành quốc gia trong lĩnh vực giao thông vận tải, bảo đảm liên kết các hạ tầng kinh tế - xã hội (khu công nghiệp, khu chế xuất, cảng hàng không, cảng biển,…) và liên kết vùng, kết nối đồng bộ, hiệu quả giữa các phương thức vận tải.

Trước đó, tại Thông báo số 207/TB-VPCP ngày 18/6/2020 của Văn phòng Chính phủ, Thủ tướng đã giao Bộ Giao thông vận tải nghiên cứu, khẩn trương đề xuất lập Đề án chi tiết kết nối kết cấu hạ tầng giao thông trọng điểm, lan tỏa, tạo liên kết vùng (các công trình kết nối khu công nghiệp, khu chế xuất, trục hướng tâm, vành đai, các đường kết nối cảng biển và hành lang vận tải quốc tế).

Tuy nhiên, theo báo cáo của Bộ Giao thông vận tải, Quy hoạch phát triển giao thông vận tải vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 2055/QĐ-TTg ngày 23/11/2015, trong đó đã quy hoạch hệ thống giao thông vùng kinh tế trọng điểm phía Nam phù hợp với quy hoạch kết cấu hạ tầng giao thông quốc gia, giao thông địa phương; phát triển hệ thống giao thông vùng trên cơ sở phát huy tối đa lợi thế của vùng là cửa ngõ quốc tế. Bộ Giao thông vận tải đang triển khai đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông vùng theo quy hoạch này.

Theo Luật Quy hoạch và Nghị quyết số 110/NQ-CP ngày 2/12/2019 của Chính phủ về danh mục quy hoạch được tích hợp vào quy hoạch cấp quốc gia, quy hoạch phát triển giao thông vận tải vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 sẽ được tích hợp, kế thừa vào các quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch ngành quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh.

Vì vậy, Bộ Giao thông vận tải đã kiến nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép không triển khai lập Đề án chi tiết kết nối kết cấu hạ tầng giao thông trọng điểm vùng kinh tế trọng điểm phía Nam để tránh trùng lặp và lãng phí.

Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng KCN Quế Võ III - phân khu 2

Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng khu công nghiệp Quế Võ III – phân khu 2.

Dự án trên được thực hiện tại xã Việt Hùng, xã Phù Lương và xã Quế Tân, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh với tổng nguồn vốn là 2.779,486 tỷ đồng với quy mô 208,54 ha.

Thủ tướng Chính phủ giao UBND tỉnh Bắc Ninh chịu trách nhiệm đảm bảo tính chính xác của thông tin, số liệu báo cáo, các nội dung tiếp thu, giải trình và thẩm định theo quy định của pháp luật; việc triển khai Dự án phù hợp với quy hoạch đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt; tổ chức thực hiện thu hồi đất, đền bù, giải phóng mặt bằng, cho thuê đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất để thực hiện Dự án phù hợp với các văn bản đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt về quy mô, địa điểm và tiến độ sử dụng đất thực hiện Dự án..

Tổ chức thực hiện thu hồi đất, đền bù, giải phóng mặt bằng, cho thuê đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất để thực hiện Dự án phù hợp với các văn bản đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt về quy mô, địa điểm và tiến độ sử dụng đất thực hiện Dự án; đảm bảo không có tranh chấp, khiếu kiện về quyền sử dụng địa điểm thực hiện Dự án. Nhà đầu tư đáp ứng điều kiện được Nhà nước cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

UBND tỉnh Bắc Ninh chỉ đạo Ban quản lý các khu công nghiệp Bắc Ninh yêu cầu Nhà đầu tư ký quỹ để đảm bảo thực hiện Dự án theo quy định của pháp luật về đầu tư; báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền nếu phát hiện khoáng sản có giá trị cao hơn khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường theo quy định của pháp luật về khoáng sản…

Điều chỉnh Dự án kết cấu hạ tầng KCN Phú An Thạnh

Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng đã ký quyết định điều chỉnh chủ trương đầu tư Dự án đầu tư xây dựng, kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp Phú An Thạnh.

Theo đó, quy mô dự án là 352,7511 ha. UBND tỉnh Long An chỉ đạo Ban quản lý khu kinh tế tỉnh Long An phối hợp với các cơ quan liên quan và Nhà đầu tư rà soát và xác định chính xác tổng vốn đầu tư của Dự án.

UBND tỉnh Long An chịu trách nhiệm hoàn toàn việc cho Nhà đầu tư thuê đất theo quy định của pháp luật về đất đai; đồng thời thực hiện xử lý phần đất đã cho thuê không đúng quy định của pháp luật đối với dự án khu công nghiệp Phú An Thạnh mở rộng theo quy định của pháp luật về đất đai.

UBND tỉnh Long An chỉ đạo Ban quản lý khu kinh tế tỉnh Long An và các cơ quan chức năng của Tỉnh phối hợp với Nhà đầu tư giải quyết các khó khăn trong quá trình thực hiện Dự án, đẩy mạnh thu hút đầu tư vào khu công nghiệp; triển khai phương án đền bù, giải phóng mặt bằng; đảm bảo ổn định đời sống và hỗ trợ việc làm, đào tạo nghề cho người dân bị thu hồi đất; xây dựng phương án thu hồi đất phù hợp với tiến độ thu hút đầu tư của dự án để giảm thiểu tối đa ảnh hưởng đến người dân bị thu hồi đất; nghiên cứu phương án xây dựng nhà ở và các công trình công cộng cho người lao động trong khu công nghiệp theo ý kiến của Bộ Xây dựng.

Trà Vinh có 2 địa phương cán đích xây dựng nông thôn mới

Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng vừa ký các quyết định công nhận huyện Càng Long, tỉnh Trà Vinh đạt chuẩn nông thôn mới và thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới năm 2020.

Phó Thủ tướng giao UBND tỉnh Trà Vinh có trách nhiệm công bố và khen thưởng theo quy định, chỉ đạo huyện Càng Long và thành phố Trà Vinh tiếp tục duy trì và nâng cao chất lượng các tiêu chí, chú trọng các tiêu chí về sản xuất và môi trường để đảm bảo tính bền vững trong xây dựng nông thôn mới.

Qua 10 năm triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện Càng Long đã không ngừng phấn đấu khắc phục khó khăn, chủ động, sáng tạo, điều hành linh hoạt, tập trung chỉ đạo thực hiện tốt các tiêu chí xây dựng nông thôn mới. Từ đó góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội tiếp tục phát triển, tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2010-2015 đạt 9,3%/năm, giai đoạn 2015-2020 đạt 11,03%/năm; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng dần tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ.

Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội luôn được quan tâm đầu tư xây dựng, diện mạo đô thị, nông thôn có nhiều khởi sắc.

Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới đã thu hút và huy động nguồn lực của toàn xã hội với hơn 2.127 tỷ đồng (bình quân mỗi năm quy động trên 200 tỷ đồng), trong đó quy động sự đóng góp từ chung trong dân quy đổi thành tiền khoảng 195 tỷ đồng, chiếm 9,17%. Thương mại, dịch vụ có bước chuyển biến tích cực. Các lĩnh vực dịch vụ: Vận tải, bưu chính, viễn thông, tài chính ngân hàng,… tiếp tục phát triển phục vụ tốt nhu cầu xã hội.

Triển khai phong trào xây dựng nông thôn mới, bộ mặt nông thôn thành phố Trà Vinh cũng có nhiều thay đổi. Kinh tế - xã hội phát triển, đời sống vật chất, tinh thần của người dân ngày càng được cải thiện.

Huyện Vũ Quang (Hà Tĩnh) đạt chuẩn nông thôn mới

Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng đã ký quyết định công nhận huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh đạt chuẩn nông thôn mới năm 2020.

UBND tỉnh Hà Tĩnh có trách nhiệm công bố và khen thưởng theo quy định, chỉ đạo huyện Vũ Quang tiếp tục duy trì và nâng cao chất lượng các tiêu chí, chú trọng các tiêu chí về sản xuất và môi trường để đảm bảo tính bền vững trong xây dựng nông thôn mới.

Bước vào thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới (NTM), huyện Vũ Quang với xuất phát điểm thấp, bình quân chỉ đạt 2,1 tiêu chí/xã; thu nhập bình quân đầu người đạt 9,12 triệu đồng/người/năm; tỷ lệ hộ nghèo cao nhất tỉnh 45,85%, cơ sở hạ tầng vừa yếu, vừa thiếu...

Sau 10 năm xây dựng, đến nay, huyện Vũ Quang đã hoàn thành 9/9 tiêu chí huyện NTM; có 2 xã đạt xã NTM nâng cao; 54/73 thôn đạt khu dân cư NTM kiểu mẫu; xây dựng được hơn 1.000 vườn mẫu; 22 cụm dân cư và 49 tuyến đường đạt chuẩn “sáng - xanh - sạch - đẹp”.

Huyện cũng xây dựng được 1.845 mô hình cho thu nhập trên 100 triệu đồng/năm; 65 doanh nghiệp, 53 hợp tác xã và 155 tổ hợp tác hoạt động có hiệu quả. Thu nhập bình quân đầu người đạt 39,97 triệu đồng/người/năm (tăng 4,38 lần so với cuối năm 2010).

Tỷ lệ hộ nghèo đa chiều theo chuẩn NTM giảm còn 1,38%; 72/73 thôn được công nhận văn hóa; tỷ lệ người tham gia bảo hiểm y tế đạt trên 92%; tỷ lệ lao động qua đào tạo gần 61%;...

Trong 10 năm xây dựng NTM, huyện Vũ Quang đã huy động các nguồn lực được hơn 3.074 tỷ đồng. Trong đó, các tổ chức, cá nhân, con em xa quê hỗ trợ gần 60 tỷ đồng; Nhân dân đóng góp gần 725 tỷ đồng, góp phần hoàn thiện kết cấu hạ tầng văn hóa, giáo dục, phát triển sản xuất./.

Top