Hà Nội

Chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 19/7

19/07/2021 20:05

Thủ tướng bổ nhiệm Phó Tư lệnh Quân khu 2

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã ký Quyết định số 1233/QĐ-TTg bổ nhiệm đồng chí Đại tá Vũ Kim Hà, Phó Tham mưu trưởng Quân khu 2 giữ chức Phó Tư lệnh Quân khu 2, Bộ Quốc phòng.

Kiện toàn Hội đồng Thi đua-Khen thưởng Trung ương

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã ký Quyết định 1240/QĐ-TTg về việc kiện toàn Hội đồng Thi đua-Khen thưởng Trung ương.

Cụ thể, ông Mai Văn Chính, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Tổ chức Trung ương làm Ủy viên Hội đồng.

Ông Trịnh Văn Quyết, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam làm Ủy viên Hội đồng, thay ông Lương Cường, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam.

Quy trình rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo hằng năm

Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái đã ký Quyết định 24/2021/QĐ-TTg quy định quy trình rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo hằng năm và quy trình xác định hộ làm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và diêm nghiệp có mức sống trung bình giai đoạn 2022-2025.

Phương pháp rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo là phương pháp khảo sát thu thập thông tin của hộ gia đình để ước lượng thu nhập và xác định mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản của hộ nghèo, hộ cận nghèo bảo đảm phù hợp với chuẩn nghèo theo quy định tại Điều 3 Nghị định số 07/2021/NĐ-CP ngày 27/01/2021 của Chính phủ quy định chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2021-2025.

Phương pháp xác định hộ làm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và diêm nghiệp có mức sống trung bình là phương pháp xác định thu nhập của hộ gia đình trong vòng 12 tháng trước thời điểm rà soát, không tính khoản trợ cấp hoặc trợ giúp xã hội từ ngân sách nhà nước vào thu nhập của hộ gia đình.

Thời gian rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo hằng năm như sau:
- Định kỳ mỗi năm 01 lần: Thực hiện từ ngày 01/ 9 đến hết ngày 14/12 của năm;
- Thường xuyên hằng năm: Mỗi tháng 01 lần, thực hiện từ ngày 15 hằng tháng.

Thời gian xác định hộ làm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và diêm nghiệp có mức sống trung bình thực hiện từ ngày 15 hằng tháng.

Quy trình rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo định kỳ hằng năm gồm: 1- Lập danh sách hộ gia đình cần rà soát; 2- Tổ chức rà soát, phân loại hộ gia đình; 3- Tổ chức họp dân để thống nhất kết quả rà soát; 4- Niêm yết, thông báo công khai; 5- Báo cáo, xin ý kiến của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện; 6- Công nhận hộ nghèo, hộ cận nghèo và hộ thoát nghèo, hộ thoát cận nghèo.

Trong đó, về tổ chức họp dân để thống nhất kết quả rà soát, thành phần cuộc họp: Ban Chỉ đạo rà soát cấp xã, công chức được giao nhiệm vụ làm công tác giảm nghèo cấp xã, Trưởng thôn (chủ trì họp), Bí thư Chi bộ thôn, đoàn thể, rà soát viên và một số đại diện hộ gia đình qua rà soát, hộ gia đình khác; mời đại diện Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã giám sát.

Nội dung cuộc họp: Lấy ý kiến thống nhất của ít nhất 50% tổng số người tham dự cuộc họp về kết quả đánh giá, tính điểm đối với các hộ gia đình qua rà soát (chủ yếu tập trung vào các hộ nghèo, hộ cận nghèo mới phát sinh và hộ thoát nghèo, hộ thoát cận nghèo). Trường hợp ý kiến thống nhất dưới 50%, thực hiện rà soát lại theo quy định; kết quả cuộc họp được lập thành 02 biên bản, có chữ ký của chủ trì, thư ký cuộc họp và đại diện của các hộ dân (01 bản lưu ở thôn, 01 bản gửi Ban Chỉ đạo rà soát cấp xã).

Quy trình rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo thường xuyên hằng năm

Về quy trình rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo thường xuyên hằng năm, hộ gia đình có giấy đề nghị rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo hoặc giấy đề nghị công nhận hộ thoát nghèo, hộ thoát cận nghèo, nộp trực tiếp hoặc gửi qua đường bưu điện đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã.

Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã chỉ đạo Ban Chỉ đạo rà soát cấp xã thực hiện rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo thường xuyên theo quy trình quy định, quyết định công nhận hộ nghèo, hộ cận nghèo hoặc hộ thoát nghèo, hộ thoát cận nghèo; cấp Giấy chứng nhận hộ nghèo, hộ cận nghèo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bắt đầu rà soát theo quy định. Trường hợp không đủ điều kiện theo quy định, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.

Quyết định cũng quy định quy trình xác định hộ làm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và diêm nghiệp có mức sống trung bình gồm:

- Hộ gia đình quy định tại Khoản 2 Điều 37 Luật Cư trú làm việc trong các lĩnh vực nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp và diêm nghiệp có giấy đề nghị xác nhận hộ có mức sống trung bình, nộp trực tiếp hoặc gửi qua đường bưu điện đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã.

- Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã chỉ đạo Ban Chỉ đạo rà soát cấp xã tổ chức xác định thu nhập của hộ gia đình; niêm yết, thông báo công khai kết quả tại trụ sở xã trong thời gian 05 ngày làm việc, tổ chức phúc tra trong thời gian 03 ngày làm việc (nếu có khiếu nại) và quyết định công nhận hộ làm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và diêm nghiệp có mức sống trung bình trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bắt đầu rà soát theo quy định. Trường hợp không đủ điều kiện theo quy định, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.

Hoàn thiện báo cáo chủ trương đầu tư Chương trình MTQG Giảm nghèo bền vững 2021–2025

Tại Công văn số 4850/VPCP-KGVX ngày 19/7/2021, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái giao Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội hoàn thiện Báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025.

Cụ thể, Phó Thủ tướng giao Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội tổng hợp, tiếp thu ý kiến thành viên Chính phủ hoàn thiện Tờ trình, Báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 và Báo cáo tiếp thu, giải trình kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV chịu trách nhiệm toàn diện về nội dung; ủy quyền cho Bộ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội thay mặt Chính phủ, thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ ký Tờ trình (Báo cáo đề xuất chủ trương, Báo cáo tiếp thu, giải trình kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội kèm theo), gửi Quốc hội theo quy định và báo cáo tại phiên họp toàn thể.

Sau khi Quốc hội thông qua, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội thực hiện các thủ tục thẩm định theo quy định đối với báo cáo khả thi của Chương trình trong đó có 2 tiểu dự án hỗ trợ về nhà ở và cải thiện dinh dưỡng cho người nghèo, trình Thủ tướng Chính phủ theo quy định.

Yêu cầu rà soát nhu cầu trang thiết bị y tế, đề xuất phương án đấu thầu tập trung

Văn phòng Chính phủ đã có Thông báo số 192/TB-VPCP ngày 18/7/2021 kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam, Trưởng Ban Chỉ đạo Quốc gia phòng, chống dịch COVID-19 tại cuộc họp Ban chỉ đạo Quốc gia về công tác phòng, chống dịch COVID-19 sáng ngày 18/7/2021.

Theo đó, Phó Thủ tướng giao Bộ Y tế căn cứ kịch bản phòng, chống dịch COVID-19, phối hợp với các cơ quan và địa phương rà soát, đánh giá nhu cầu về trang thiết bị và vật phẩm y tế, đề xuất phương án đấu thầu tập trung, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong ngày 19/7/2021.

Bộ Y tế chỉ đạo, hướng dẫn việc kịp thời mua sắm đủ thiết bị bảo hộ cho các lực lượng trực tiếp làm công tác phòng chống dịch, trong đó có tỷ lệ dự phòng để sẵn sàng ứng phó với tình huống dịch cao hơn; có hướng dẫn bằng văn bản việc thực hiện rút ngắn thời gian cách ly tập trung đối với người nhập cảnh đã tiêm đủ liều vaccine phòng COVID-19.

Phó Thủ tướng giao Bộ Y tế có hướng dẫn bằng văn bản trong ngày 19/7/2021 để thực hiện thống nhất trên toàn quốc về loại xét nghiệm, thời hạn, cơ quan, đơn vị có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận xét nghiệm để bảo đảm an toàn phòng, chống dịch và giao thông thông suốt.

Bộ Giao thông vận tải phối hợp với Bộ Y tế triển khai thực hiện, bảo đảm giao thông thông suốt, an toàn trên toàn quốc và tại các địa phương thực hiện giãn cách xã hội theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại công văn số 969/TTg-KGVX ngày 17/7/2021.

Kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam tại buổi làm việc với Bộ Y tế về một số nội dung khoa học công nghệ ngành y tế

Ngày 19/7/2021, Văn phòng Chính phủ có Thông báo số 194/TB-VPCP kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam tại buổi làm việc với Bộ Y tế về một số nội dung khoa học công nghệ ngành y tế.

Thông báo nêu rõ: Thủ tướng Chính phủ ghi nhận, đánh giá cao và biểu dương các nhà khoa học trong lĩnh vực khoa học sức khỏe, các y bác sĩ trong thời gian qua đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong nghiên cứu, ứng dụng khoa học trong y tế từ chẩn đoán, điều trị, sản xuất vaccine, thuốc, dược liệu; đặc biệt là trong chẩn đoán và điều trị, về cơ bản đã tiếp cận, làm chủ và triển khai đạt kết quả tương đương với các nước tiên tiến trên thế giới trong các lĩnh vực, chyên ngành: Nội, ngoại, sản, nhi, ghép tạng…; được ghi nhận qua các giải thưởng lớn trong nước, như cụm công trình đoạt Giải thưởng Hồ Chí Minh; đã bảo đảm cung ứng cho chương trình tiêm chủng mở rộng 11/12 loại vaccine, xuất khẩu sang 10 nước, góp phần bảo đảm an ninh vaccine quốc gia; đã tiếp thu, làm chủ được một số công nghệ nghiên cứu sản xuất các loại thuốc chữa bệnh có bản chất là protein và enzyme; phát hiện và ứng dụng các chỉ thị sinh học liên quan đến các bệnh ung thư và bệnh di truyền; đạt được một số kết quả ứng dụng công nghệ tế bào trong bảo tồn và phát triển các nguồn dược liệu quý hiếm; các nhà khoa học đã có những đóng góp nhất định trong việc ban hành các cơ chế, chính sách chung của ngành y tế.

Tuy nhiên, khoa học công nghệ trong ngành y tế chưa thực sự phát triển tương xứng với tiềm năng, khả năng, mới chỉ tập trung ở các trung tâm lớn, các thành phố lớn, mà chưa phổ biến kết quả, chuyển giao kỹ thuật cho tuyến dưới; nghiên cứu còn nhỏ lẻ, trang thiết bị còn thiếu và không đồng bộ do không được đầu tư và đặc biệt thiếu nhân lực (chuyên gia, nhóm nghiên cứu), nhân lực không được đào tạo liên tục; ít tổ chức khoa học công nghệ ngoài công lập. Giá trị xuất khẩu còn thấp, chưa khai thác được hết tiềm năng của y học cổ truyền, thị trường chủ yếu là các nước kém phát triển. Các nghiên cứu có tính dự báo, đo lường khả năng và diễn biến của các bệnh dịch mới nổi, bệnh dịch tái diễn còn chưa được coi trọng. Còn ít nghiên cứu tạo ra sản phẩm có giá trị kinh tế (test, kít chẩn đoán, sinh phẩm), ít có khả năng cạnh tranh trên thị trường.

Các tồn tại trên một phần là do nghiên cứu, phát triển và ứng dụng khoa học trong lĩnh vực y tế, liên quan trực tiếp đến sức khỏe, tính mạng người dân, chất lượng nòi giống là vấn đề khó, nhạy cảm; một phần do các khó khăn, bất cập về cơ chế, chính sách và đầu tư.

Để phát huy được hết khả năng, tiềm năng của khoa học trong lĩnh vực y tế, khắc phục được những khó khăn, bất cập về cơ chế chính sách, cần có nhiều giải pháp đột phá, dài hạn.

Phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh trong lĩnh vực khoa học sức khỏe

Phó Thủ tướng đã thống nhất chủ trương tăng cường, thúc đẩy liên doanh hợp tác trong đầu tư xây dựng, phát triển các trung tâm nghiên cứu, trung tâm thử nghiệm tiền lâm sàng và lâm sàng theo chuẩn quốc tế.

Phó Thủ tướng giao Bộ Y tế chỉ đạo các trường đại học, viện nghiên cứu, bệnh viện xây dựng đề án thí điểm thành lập, kiện toàn các đơn vị phù hợp với chức năng, định hướng phát triển, bảo đảm hoạt động hiệu quả. Trong quá trình thực hiện, kịp thời báo cáo Thủ tướng Chính phủ trường hợp vượt thẩm quyền.

Bộ Y tế chỉ đạo, hỗ trợ việc thành lập, phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh trong lĩnh vực khoa học sức khỏe.

Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với các Bộ: Y tế, Tài chính rà soát, xây dựng hướng dẫn về tiêu chí, nội dung ưu đãi, làm căn cứ để Bộ Tài chính ưu tiên bố trí nguồn vốn thực hiện, nâng cao năng lực nghiên cứu.

Tăng cường ứng dụng trí tuệ nhân tạo

Phó Thủ tướng chỉ đạo thúc đẩy triển khai, tăng cường ứng dụng khoa học tiên tiến như trí tuệ nhân tạo (AI), các hệ chuyên gia trong công tác dự phòng, chẩn đoán, điều trị và y tế công cộng.

Hiện đại hóa y học cổ truyền theo hướng ứng dụng công nghệ tiên tiến để luận giải, chứng minh tác dụng, tạo niềm tin đối với người sử dụng, qua đó thúc đẩy ngành dược liệu phát triển.

Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ, các cơ quan xây dựng Chiến lược phát triển khoa học sức khỏe đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045; trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định trong năm 2021.

Hỗ trợ tối đa nghiên cứu phát triển vaccine phòng chống đại dịch

Phó Thủ tướng yêu cầu các Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tạo điều kiện tối đa về cơ chế, chính sách, ưu đãi của pháp luật về đầu tư, đầu tư công đối với các dự án nghiên cứu, sản xuất hoặc chuyển giao công nghệ tiên tiến trong ngành y tế, đặc biệt là công nghệ sản xuất vaccine phòng COVID-19.

Về việc ngân sách Nhà nước hỗ trợ đối với các nhiệm vụ, dự án nghiên cứu phát triển vaccine phòng chống dịch bệnh, Bộ Y tế chủ động đề xuất các nhiệm vụ với Bộ Khoa học và Công nghệ để đặt hàng và ưu tiên kinh phí hỗ trợ ở mức cao nhất theo quy định. Đối với các dự án nghiên cứu phát triển vaccine phòng chống đại dịch, Bộ Tài chính phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ rà soát, sửa đổi quy định liên quan theo hướng có thể hỗ trợ ở mức tối đa đến 100% tổng mức kinh phí đầu tư.

Bộ Y tế, Bộ Khoa học và Công nghệ, các bộ, ngành tích cực vận động, huy động các nguồn tài chính hợp pháp, huy động xã hội hóa lĩnh vực khoa học công nghệ nói chung và khoa học công nghệ trong ngành y tế nói riêng.

Bộ Y tế xây dựng Đề án thành lập Viện Vaccine quốc gia gắn với Trung tâm nghiên cứu chuyển giao công nghệ vaccine, trên cơ sở rà soát, sắp xếp hợp lý các đơn vị sự nghiệp trong nghiên cứu của Bộ Y tế một cách hợp lý, báo cáo Thủ tướng Chính phủ.

Về vaccine COVID-19, thời gian vừa qua, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã có nhiều chỉ đạo, Bộ Y tế chủ động triển khai thực hiện trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền, kịp thời báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trường hợp vượt thẩm quyền.

Định hướng phát triển kiến trúc Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến 2050

Ngày 19/7/2021, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Văn Thành đã ký Quyết định 1246/QĐ-TTg phê duyệt định hướng phát triển kiến trúc Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Mục tiêu tổng quát là tiếp tục xây dựng phát triển kiến trúc Việt Nam hiện đại, bền vững, giàu bản sắc, đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển văn hóa trở thành nền tảng tinh thần trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Mục tiêu cụ thể là hoàn thiện thể chế, quy phạm pháp luật trong lĩnh vực kiến trúc; đến năm 2025 hoàn thành việc xây dựng, ban hành hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn quốc gia về kiến trúc; đến năm 2025, các đô thị hoàn thành xây dựng quy chế quản lý kiến trúc; phấn đấu đến năm 2030 cơ bản hoàn thành quy chế quản lý kiến trúc điểm dân cư nông thôn.

Bảo tồn, kế thừa và phát huy các giá trị kiến trúc truyền thống; phấn đấu đến năm 2025, các địa phương hoàn thành việc xây dựng danh mục công trình kiến trúc có giá trị; thúc đẩy chuyển đổi số trong lĩnh vực kiến trúc, đến năm 2030 hoàn thành hệ thống cơ sở dữ liệu kiến trúc quốc gia; số hóa các công trình kiến trúc có giá trị; các công trình kiến trúc bảo đảm tiêu chí về bảo vệ môi trường, cân bằng sinh thái; sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, đất đai, tiết kiệm năng lượng; có giải pháp phòng chống thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu.

Về định hướng phát triển kiến trúc Việt Nam, đối với khu vực đô thị, phát triển kiến trúc đối với mỗi đô thị phải bảo đảm giữ được bản sắc, hài hòa với điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường, trình độ khoa học, kỹ thuật; bảo đảm tính thống nhất trong việc quản lý từ không gian tổng thể đến không gian cụ thể của công trình kiến trúc; bảo đảm kết hợp hài hoà giữa quá khứ với hiện tại; có dự báo hợp lý trong tương lai, phòng chống thiên tai, dịch bệnh và biến đổi khí hậu.

Đối với khu vực nông thôn, phát triển kiến trúc tại nông thôn cần đề cao sự tham gia của cộng đồng; chú trọng bảo vệ di sản kiến trúc, thiên nhiên; bổ sung những chức năng còn thiếu, kết hợp hiện đại hóa kết cấu hạ tầng; bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá truyền thống, phong tục, tập quán riêng biệt của mỗi địa phương; phù hợp với đặc điểm thiên nhiên, con người, kế thừa kinh nghiệm xây dựng, phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu; khuyến khích phát triển các công trình kiến trúc có tính kế thừa kiến trúc truyền thống, phù hợp với khung cảnh thiên nhiên và điều kiện khí hậu của từng địa phương.

Trên nền tảng bảo tồn các di sản kiến trúc cùng các giá trị cốt lõi tạo lập nên bản sắc văn hóa dân tộc trong kiến trúc truyền thống Việt Nam. Sự kết nối hữu cơ giữa các di sản với tổng thể kiến trúc của một khu vực trong đô thị, nông thôn cần được bảo đảm xuyên suốt trong quá trình phát triển kiến trúc.

Bản sắc văn hóa trong kiến trúc phải được bảo tồn, phát huy phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước, đặc điểm vùng miền; phản ánh mối quan hệ với nền kiến trúc hiện đại, ứng dụng những tiến bộ về công nghệ kỹ thuật; gắn kết khả năng công nghệ, vật liệu, kinh tế của từng địa phương.

Phát huy hiệu quả vai trò của cộng đồng trong việc tham gia vào quá trình phát triển kiến trúc Việt Nam hiện đại, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; góp phần tạo lập, hoàn thiện môi trường cư trú tiện nghi và bền vững.

Nâng tầm, đổi mới công tác truyền thông, giáo dục phổ cập nhằm nâng cao nhận thức cộng đồng về ý nghĩa thực tiễn, tầm quan trọng của Định hướng và mục tiêu phát triển kiến trúc Việt Nam hiện đại, bền vững, giàu bản sắc văn hóa dân tộc.

Chủ động, đẩy mạnh hội nhập quốc tế và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực kiến trúc; tổ chức các hoạt động giao lưu, mở rộng, phát huy các mối quan hệ hợp tác, liên kết nhằm tăng cường xúc tiến, quảng bá, giới thiệu về kiến trúc Việt Nam; thu hút đầu tư, xây dựng và nâng cao vị thế công nghiệp văn hóa Việt Nam trong lĩnh vực kiến trúc trên trường quốc tế.

Quyết định cũng nêu cụ thể các nhiệm vụ, giải pháp thực hiện định hướng phát triển kiến trúc Việt Nam đền năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 như: Xây dựng pháp luật, cơ chế chính sách; bảo tồn, phát huy giá trị bản sắc văn hóa dân tộc; lý luận, phê bình kiến trúc; đào tạo và phát triển nguồn nhân lực;.../.

Top