Hà Nội

Chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 12/10

12/10/2019 18:18

Nghị quyết phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 9/2019

Nghị quyết phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 9/2019 nêu rõ, quan điểm chỉ đạo của Chính phủ trong những tháng còn lại của năm 2019 là tiếp tục kiên định mục tiêu đề ra, yêu cầu các cấp, các ngành tuyệt đối không được lơ là, chủ quan; tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về thể chế chính sách, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh thông thoáng, thuận lợi hơn nữa.

Chính phủ yêu cầu từng Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố đề cao trách nhiệm người đứng đầu, sâu sát công việc, chủ động, phối hợp xử lý những vướng mắc, bất cập; có giải pháp cụ thể khắc phục những tồn tại, hạn chế, nhất là vấn đề giải ngân vốn đầu tư, giải phóng mặt bằng, cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp, tập trung thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm sau:

Các bộ, ngành đánh giá toàn diện tác động của xung đột thương mại giữa các nước lớn, tác động của thị trường tài chính quốc tế; cập nhật kịch bản tăng trưởng năm 2019 để có các giải pháp phù hợp, kịp thời đối với từng ngành, từng lĩnh vực. Tăng cường kiểm soát thị trường, quản lý giá cả, tiếp tục theo dõi chặt chẽ diễn biến giá cả thị trường thế giới và trong nước, thực hiện đồng bộ các giải pháp bảo đảm kiểm soát lạm phát theo mục tiêu. Tiếp tục rà soát, cắt giảm thực chất điều kiện kinh doanh không cần thiết, tổ chức đánh giá kết quả cải thiện môi trường kinh doanh thuộc lĩnh vực quản lý của bộ, ngành, địa phương mình gắn với thi đua.

Điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, ổn định thị trường ngoại tệ

Chính phủ yêu cầu Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, ổn định thị trường ngoại tệ, tập trung tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi trong việc tiếp cận vốn tín dụng của doanh nghiệp và người dân.

Bộ Tài chính chỉ đạo thực hiện quyết liệt các giải pháp thu ngân sách, bảo đảm thu đúng, thu đủ và kịp thời, tăng cường thanh tra, kiểm tra thuế, phấn đấu hoàn thành vượt mức dự toán được giao. Kiểm soát chặt chẽ, công khai, minh bạch các khoản chi NSNN.

Bộ Nông nghiệp và Phát triền nông thôn tập trung chỉ đạo phát triển sản xuất, thúc đẩy các lĩnh vực, ngành hàng, sản phẩm nông sản có ưu thế, có giá trị gia tăng cao. Định hướng, khuyến cáo cơ cấu chăn nuôi bảm đảm nguồn cung, tránh tác động đến giá cả và nhu cầu tiêu dùng dịp cuối năm và Tết Nguyên đán.

Đẩy nhanh việc di dời cơ sở sản xuất sử dụng hóa chất độc hại, nguy hiểm ra khỏi đô thị

Chính phủ yêu cầu UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương khẩn trương rà soát, thống kê, quản lý các cơ sở sản xuất, kinh doanh sử dụng hóa chất độc hại, nguy hiểm và đẩy nhanh việc di dời các cơ sở sản xuất này ra khỏi đô thị hoặc khu dân cư tập trung. UBND thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh có giải pháp căn cơ, đồng bộ về môi trường đô thị, báo cáo Thủ tướng Chính phủ.

Bộ Y tế hướng dẫn các địa phương phòng, chống dịch bệnh, nhất là dịch bệnh theo mùa. Tiếp tục thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng khám chữa bệnh và thái độ phục vụ nhân dân. Tăng cường quản lý nhà nước về thuốc chữa bệnh, đấu thầu tập trung để giảm giá thuốc và kiểm tra, kiểm soát, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm.

Bộ Công an tăng cường công tác bảo đảm an ninh trật tự toàn xã hội. Tập trung bảo vệ tuyệt đối an ninh, an toàn Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa XII và kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIV.

Chuẩn bị tốt kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIV

Giao thành viên Chính phủ tập trung chỉ đạo hoàn thành các báo cáo, tờ trình được phân công chủ trì, gửi tài liệu phục vụ kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIV, chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ, trước Quốc hội về chất lượng và thời hạn theo quy định, không để nợ đọng văn bản quy định chi tiết đến khi khai mạc kỳ họp.

Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện nghiêm công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định và các ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, bảo đảm không để xảy ra tình trạng khiếu kiện đông người, gây mất an ninh trật tư, nhất là trong thời gian diễn ra kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIV.

Bộ Thông tin và Truyền thông phối hợp Ban Tuyên giáo Trung ương định hướng thông tin nội dung kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIV. Chỉ đạo Thông tấn xã Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam chủ động thông tin về những vấn đề cử tri, đại biểu Quốc hội quan tâm.

Thủ tướng chỉ thị thúc đẩy tăng trưởng và phát triển bền vững Vùng KTTĐ Bắc Bộ

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc vừa ký Chỉ thị số 25/CT-TTg về các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng và phát triển bền vững Vùng Kinh tế trọng điểm (KTTĐ) Bắc Bộ.

Vùng KTTĐ Bắc Bộ gồm 7 tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh là trung tâm về chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh của cả nước; có quy mô kinh tế đứng thứ 2 cả nước, chiếm 35,52% GRDP của 4 vùng KTTĐ, chiếm gần 32% GDP của cả nước, thu ngân sách chiếm trên 31% của cả nước, xuất khẩu hàng năm chiếm 32% của cả nước; cơ cấu kinh tế dịch chuyển theo hướng tích cực...

Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế của Vùng KTTĐ Bắc Bộ đang phải đối mặt với một số khó khăn, thách thức như: trình độ phát triển kinh tế còn chưa đồng đều giữa các địa phương trong Vùng. Thu ngân sách của một số địa phương còn chưa bền vững, phụ thuộc vào nguồn thu của một số dự án FDI quy mô lớn; việc tổ chức thực hiện định giá theo các phương pháp định giá đất hiện hành còn bất cập, làm ảnh hưởng đến việc tính thu nghĩa vụ tài chính cũng như quyền và lợi ích của người dân...

Xây dựng cơ chế, chính sách thuận lợi, thông thoáng

Nhằm tạo điều kiện thuận lợi để Vùng KTTĐ Bắc Bộ phát huy các tiềm năng, lợi thế, phát triển bứt phá và bền vững, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố Vùng KTTĐ Bắc Bộ tập trung chỉ đạo thực hiện đồng bộ, hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp thúc đẩy tăng trưởng và phát triển bền vững Vùng KTTĐ Bắc Bộ.

Mục tiêu là vùng KTTĐ Bắc Bộ phải tiếp tục giữ vững và phát huy hơn nữa vai trò là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa và khoa học kỹ thuật của cả nước; là tâm điểm hội tụ nguồn lực và nguyên khí quốc gia, hội nhập và giao thương với khu vực và quốc tế; thực sự trở thành hạt nhân phát triển của vùng đồng bằng sông Hồng và cả nước. Xây dựng vùng KTTĐ Bắc Bộ trở thành một trong hai vùng dẫn đầu cả nước về phát triển kinh tế, nòng cốt tiên phong trong thực hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bảo đảm gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường, bảo đảm an sinh xã hội, trật tự an toàn xã hội, củng cố vững chắc nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Phấn đấu hoàn thành các mục tiêu đề ra tại Quyết định số 198/QĐ-TTg ngày 25/01/2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội Vùng KTTĐ Bắc Bộ đến năm 2020, định hướng đến 2030.

Đồng thời phát triển mạnh những lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế, nhất là các lĩnh vực: công nghiệp chế biến, chế tạo; nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; công nghệ thông tin, du lịch và các ngành dịch vụ khác; gắn với phát triển đô thị thông minh, mang tầm cạnh tranh khu vực, quốc tế. Khai thác tốt hơn các thế mạnh của Vùng về kết cấu hạ tầng, điều kiện tự nhiên, vị trí địa chính trị quan trọng, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Phát triển tổng thể, mang tính hữu cơ, liên kết chặt chẽ giữa các địa phương trong Vùng thành một thể thống nhất.

Xây dựng cơ chế, chính sách thuận lợi, thông thoáng, ổn định và phù hợp với đặc thù của vùng KTTĐ Bắc Bộ để tạo điều kiện thuận lợi thu hút đầu tư, thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững, thực hiện sứ mệnh dẫn dắt, tác động lan tỏa đến các vùng khác trong cả nước.

Về cơ chế chính sách, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp theo hướng chủ động thu hút có chọn lọc đầu tư nước ngoài, ưu tiên thu hút các dự án công nghệ cao, công nghệ mới, quản trị hiện đại, thân thiện với môi trường, kết nối chuỗi cung ứng toàn cầu, có tác động lan tỏa, kết nối chặt chẽ hữu cơ với khu vực kinh tế trong nước; phù hợp với định hướng cơ cấu lại nền kinh tế và mục tiêu phát triển bền vững; bảo vệ môi trường; tăng cường tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế trên cơ sở hoàn thiện thể chế, chính sách, đẩy mạnh hiệu quả hợp tác đầu tư trong và ngoài nước, đáp ứng yêu cầu thực tiễn trong tình hình mới; báo cáo Chính phủ trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIV.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn các địa phương thực hiện chuyển tiếp các quy hoạch hiện hành, xử lý các khó khăn, vướng mắc trong thực hiện Luật Quy hoạch và kịp thời báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, xử lý những vấn đề vượt thẩm quyền.

Bộ Xây dựng nghiên cứu các quy định của pháp luật về xây dựng phù hợp với Luật Quy hoạch, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 37 Luật có liên quan đến quy hoạch và bảo đảm sự thống nhất giữa các văn bản quy phạm pháp luật về xây dựng, trong đó tập trung nghiên cứu, sửa đổi Luật Xây dựng và các quy chuẩn, tiêu chuẩn về quy hoạch, xây dựng báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong năm 2020; nghiên cứu đổi mới phương pháp quy hoạch đô thị, quản lý phát triển đô thị nhằm nâng cao chất lượng công tác quy hoạch xây dựng, quản lý phát triển đô thị, đảm bảo tính khoa học, hội nhập, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội Vùng KTTĐ Bắc Bộ; đề xuất các giải pháp từng bước triển khai thực hiện các mô hình phát triển đô thị, tăng trưởng xanh, thông minh, ứng phó với biến đổi khí hậu, báo cáo Thủ tướng Chính phủ định kỳ hàng năm.

Thủ tướng Chính phủ yêu cầu UBND các tỉnh, thành phố trong vùng KTTĐ Bắc Bộ có cơ chế đặc thù để khuyến khích một số doanh nghiệp tầm cỡ phát triển trở thành doanh nghiệp đầu tàu, có quy mô khu vực và quốc tế để tạo hiệu ứng lan tỏa và dẫn dắt các doanh nghiệp khác trong Vùng phát triển.

Thực hiện có hiệu quả các chính sách hỗ trợ, ưu đãi nhằm nâng cao năng lực cho các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ nội địa để có thể tham gia vào chuỗi giá trị các doanh nghiệp FDI trong vùng.

UBND các tỉnh, thành phố trong vùng KTTĐ Bắc Bộ phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành thực hiện tốt các hoạt động điều phối liên kết giữa các tỉnh, thành phố trong Vùng; kịp thời đề xuất với Chính phủ những cơ chế, chính sách phù hợp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện.

Triển khai đồng bộ, toàn diện và hiệu quả các Chương trình, dự án giảm nghèo; tạo cơ hội cho hộ nghèo tiếp cận các chính sách trợ giúp về đất đai, tín dụng, dạy nghề; hỗ trợ, tạo điều kiện cho các hộ nghèo phát triển sản xuất, tăng thu nhập để thoát nghèo bền vững. Kịp thời giải quyết những vấn đề phát sinh, thực hiện tốt các nhiệm vụ phát triển văn hóa, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh trên địa bàn.

Có quyết tâm chính trị cao, quyết liệt thực hiện các giải pháp đồng bộ, hiệu quả để nâng cao ý thức người dân, phòng chống, xử lý, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, nhất là ô nhiễm rác thải nhựa; gương mẫu, đi đầu trong thực hiện phong trào nói không với rác thải nhựa.

Đẩy mạnh liên kết các ngành, lĩnh vực

Về liên kết các ngành, lĩnh vực, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư đẩy mạnh thực hiện Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), trong đó tập trung xây dựng Chương trình hỗ trợ DNNVV tăng cường liên kết doanh nghiệp theo vùng, đặc biệt là hỗ trợ DNNVV tham gia cụm liên kết, chuỗi giá trị trong những ngành, lĩnh vực có lợi thế của các vùng KTTĐ Bắc Bộ.

Bộ Công Thương phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đẩy mạnh các hoạt động liên kết doanh nghiệp phân phối với nhà sản xuất nông nghiệp và liên kết giữa các doanh nghiệp phân phối; ưu tiên phát triển mạng lưới trung tâm logistics vùng KTTĐ Bắc Bộ trong đó xác định thành phố Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh và việc gắn kết trục cảng hàng không quốc tế Nội Bài – Cát Bi – Vân Đồn với cảng Lạch Huyện làm trung tâm, phát triển lan tỏa ra các khu vực lân cận.

Bộ Xây dựng hướng dẫn các địa phương rà soát các quy hoạch đô thị, điều chỉnh, bổ sung để nâng cao chất lượng các đồ án quy hoạch, đáp ứng tốt nhất các yêu cầu phát triển của Vùng KTTĐ Bắc Bộ; tập trung nghiên cứu, tổ chức lập Quy hoạch tổng thể đô thị và nông thôn quốc gia; tập trung nghiên cứu, đề xuất các cơ chế, giải pháp để thúc đẩy phát triển nhà ở xã hội tại khu vực đô thị, nhà ở cho công nhân tại các khu công nghiệp; cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển nhà cho thuê, nhà ở cho người có thu nhập thấp; thực hiện việc kiểm tra, rà soát việc quy hoạch và khai thác, sử dụng quỹ đất đô thị dành để phát triển nhà ở xã hội tại một số địa bàn trọng điểm của Vùng. 

Bộ Nông nghiệp rà soát định hướng, kế hoạch cơ cấu lại nông nghiệp vùng KTTĐ Bắc Bộ gắn với xây dựng nông thôn mới. Chú trọng phát triển sản xuất nông - lâm - thủy sản theo hướng thâm canh cao, đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến, công nghệ cao, nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ, tập trung vào các cây trồng, vật nuôi có thế mạnh gắn với phát triển công nghiệp chế biến; tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động liên kết doanh nghiệp phân phối với nhà sản xuất nông nghiệp và liên kết giữa các doanh nghiệp phân phối.

Thủ tướng Chính phủ yêu cầu UBND các tỉnh, thành phố trong vùng KTTĐ Bắc Bộ chú trọng phối hợp, gắn kết chặt chẽ giữa các địa phương trong và ngoài vùng trong quá trình xúc tiến đầu tư, huy động và phân bổ nguồn lực, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; đào tạo, thu hút và tạo việc làm; nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ; cung cấp thông tin, xây dựng cơ sở dữ liệu kinh tế - xã hội phục vụ cho công tác phân tích, dự báo, xây dựng, đánh giá chính sách; phối hợp tốt trong bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu…;

Đẩy mạnh thu hút FDI có chọn lọc; đổi mới hoạt động xúc tiến đầu tư nước ngoài theo hướng cần tập trung vào các ngành, lĩnh vực mà vùng có lợi thế; hướng vào các đối tác giàu tiềm năng, nhất là các nước phát triển, đồng thời tiếp tục mở rộng mô hình đầu tư cho các đối tác đã đầu tư nhiều vào vùng với yêu cầu về chất lượng cao, công nghệ tiên tiến.

Các địa phương cần thực hiện quyết liệt, hiệu quả, thực chất hơn nhiệm vụ cơ cấu lại nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng trong tất cả các ngành, lĩnh vực theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh. Tập trung phát triển các ngành có lợi thế so sánh, ứng dụng công nghệ hiện đại, tạo ra giá trị gia tăng cao; trong đó chú trọng phát triển các ngành: công nghiệp chế biến, chế tạo; nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; công nghệ thông tin; du lịch, dịch vụ; gắn kết chặt chẽ với phát triển đô thị thông minh để tạo động lực cho phát triển. Tuyên truyền, vận động người sử dụng đất thực hiện tập trung đất nông nghiệp để tổ chức sản xuất nông nghiệp tập trung, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng đất.

Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Giao thông vận tải, Bộ Tài chính và các địa phương đẩy nhanh tiến độ hoàn thiện các thủ tục đầu tư, bố trí nguồn vốn đầu tư công, phấn đấu khởi công các dự án đường ven biển từ Quảng Ninh đến Nghệ An trong năm 2020; nghiên cứu lựa chọn mô hình, hoàn thiện thể chế, chính sách về hình thức đầu tư PPP, có cơ chế, chính sách ưu đãi nhằm đẩy mạnh xã hội hóa đối với các nhà đầu tư, doanh nghiệp khi tham gia đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông đối với những dự án quan trọng.

Bộ Tài chính đề xuất cơ chế, chính sách tạo nguồn thu để lại và tỷ lệ điều tiết trong giai đoạn 2021-2025 cho các tỉnh, thành phố có tỷ lệ điều tiết về ngân sách trung ương thuộc Vùng KTTĐ Bắc Bộ để tăng cường đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế và hạ tầng kỹ thuật, ưu tiên phát triển hạ tầng giao thông và hạ tầng xã hội, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong Quý III năm 2020.

UBND các tỉnh, thành phố trong vùng KTTĐ Bắc Bộ cần huy động và sử dụng hiệu quả hơn các nguồn lực để phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội, phát triển nguồn nhân lực, khoa học và công nghệ, bảo vệ môi trường... Tăng cường thu hút kêu gọi đầu tư theo các hình thức đối tác công tư, đặc biệt trong lĩnh vực giao thông. Thực hiện hiệu quả chính sách đấu giá quyền sử dụng đất, nhất là tại các khu đô thị để tạo nguồn lực đầu tư kết cấu hạ tầng, tạo nền tảng thúc đẩy liên kết vùng, phát triển kinh tế - xã hội.

Phê chuẩn miễn nhiệm Chủ tịch tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu

Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc vừa ký Quyết định 1345/QĐ-TTg phê chuẩn kết quả miễn nhiệm chức vụ Chủ tịch UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, nhiệm kỳ 2016-2021 đối với ông Nguyễn Văn Trình, để nghỉ hưu theo chế độ.

Quy định mới về tổ hợp tác

Chính phủ vừa ban hành Nghị định 77/2019/NĐ-CP quy định về thành lập, tổ chức, hoạt động và chấm dứt hoạt động của tổ hợp tác. Nghị định này có hiệu lực từ ngày 25/11/2019 và thay thế Nghị định 151/2007/NĐ-CP.

Theo quy định, tổ hợp tác là tổ chức không có tư cách pháp nhân, được hình thành trên cơ sở hợp đồng hợp tác, gồm từ 02 cá nhân, pháp nhân trở lên tự nguyện thành lập, cùng đóng góp tài sản, công sức để thực hiện những công việc nhất định, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm.

Tổ hợp tác tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc: 1- Tổ hợp tác hoạt động trên cơ sở hợp đồng hợp tác; 2- Cá nhân, pháp nhân tự nguyện thành lập, gia nhập và rút khỏi tổ hợp tác; 3- Thành viên tổ hợp tác có quyền dân chủ, bình đẳng trong việc quyết định tổ chức và hoạt động của tổ hợp tác. Quyết định theo đa số trừ trường hợp hợp đồng hợp tác, Bộ luật dân sự và pháp luật có liên quan quy định khác; 4- Cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm.

Tổ hợp tác có quyền: 1- Tên riêng; 2- Tự do hoạt động, kinh doanh trong những ngành, nghề mà luật không cấm; được quyền kinh doanh ngành, nghề kinh doanh có điều kiện kể từ khi có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật; 3- Hợp tác kinh doanh với tổ chức, cá nhân để mở rộng hoạt động, sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp luật; 4- Thực hiện mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán theo quy định của pháp luật có liên quan; 5- Xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự theo quy định của Nghị định, Điều 508 của Bộ luật dân sự và pháp luật khác có liên quan; 6- Được hưởng các chính sách ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước như các hợp tác xã; 7- Quyền khác theo quy định của hợp đồng hợp tác, Bộ luật dân sự và pháp luật khác có liên quan.

Nghị định nêu rõ, để trở thành thành viên của tổ hợp tác, các thành viên phải đáp ứng các điều kiện sau:

1- Cá nhân là công dân Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự phù hợp theo quy định từ Điều 16 đến Điều 24 Bộ luật dân sự, quy định của Bộ luật lao động và pháp luật khác có liên quan;

2- Tổ chức là pháp nhân Việt Nam, thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật Việt Nam, có năng lực pháp luật phù hợp với lĩnh vực kinh doanh của tổ hợp tác;

3- Tự nguyện gia nhập và chấp thuận nội dung hợp đồng hợp tác;

4- Cam kết đóng góp tài sản, công sức theo quy định của hợp đồng hợp tác;

5- Điều kiện khác theo quy định của hợp đồng hợp tác.

Ngoài ra, Nghị định cũng nêu rõ tổ hợp tác bị chấm dứt hoạt động trong trường hợp sau: a- Hết thời hạn ghi trong hợp đồng hợp tác; b- Mục đích hợp tác đã đạt được; c- Không duy trì số lượng thành viên tối thiểu theo quy định; d- Theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; đ- Theo quy định của hợp đồng hợp tác và pháp luật có liên quan; e- Theo thỏa thuận của các thành viên tổ hợp tác.

Điều kiện nhập khẩu sản phẩm CNTT đã qua sử dụng cấm nhập khẩu để nghiên cứu khoa học

Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Quyết định quy định việc nhập khẩu hàng hóa thuộc Danh mục sản phẩm công nghệ thông tin (CNTT) đã qua sử dụng cấm nhập khẩu để nghiên cứu khoa học và thực hiện hoạt động gia công sửa chữa hàng hóa thuộc Danh mục sản phẩm CNTT đã qua sử dụng cấm nhập khẩu cho thương nhân nước ngoài để tiêu thụ ở nước ngoài.

Quyết định này quy định hồ sơ, trình tự, thủ tục, thẩm quyền cho phép nhập khẩu hàng hóa thuộc Danh mục sản phẩm CNTT đã qua sử dụng cấm nhập khẩu để nghiên cứu khoa học và thực hiện hoạt động gia công sửa chữa hàng hóa thuộc Danh mục sản phẩm CNTT đã qua sử dụng cấm nhập khẩu cho thương nhân nước ngoài để tiêu thụ ở nước ngoài.

Trong đó, Quyết định quy định tiêu chí, điều kiện nhập khẩu hàng hóa thuộc Danh mục sản phẩm CNTT đã qua sử dụng cấm nhập khẩu để nghiên cứu khoa học; tiêu chí, điều kiện để thực hiện  hoạt động gia công sửa chữa hàng hóa cho thương nhân nước ngoài.

Cụ thể, tiêu chí, điều kiện chung đối với hàng hóa thuộc Danh mục sản phẩm CNTT đã qua sử dụng cấm nhập khẩu được phép nhập khẩu để nghiên cứu khoa học hoặc để thực hiện hoạt động gia công sửa chữa cho thương nhân nước ngoài: Hàng hóa nhập khẩu chỉ để phục vụ trực tiếp cho hoạt động nghiên cứu khoa học hoặc gia công của thương nhân; không được phục vụ mục đích bán, biếu, tặng; hàng hóa nhập khẩu không được gây ô nhiễm môi trường theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường.

Tiêu chí, điều kiện nhập khẩu hàng hóa thuộc Danh mục sản phẩm CNTT đã qua sử dụng cấm nhập khẩu để nghiên cứu khoa học là: Hàng hóa nhập khẩu phải đáp ứng tiêu chí, điều kiện chung quy định nêu trên; hàng hóa nhập khẩu thuộc danh mục sản phẩm, thiết bị phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học của đề án, dự án nghiên cứu khoa học đã được phê duyệt; hàng hóa nhập khẩu được thuê hoặc mua hoặc mượn từ đối tác nước ngoài có các tính chất, đặc điểm mang tính riêng biệt, chuyên dùng mà sản phẩm hàng hóa bán ở thị trường trong nước không thay thế được.

Tiêu chí, điều kiện thực hiện hoạt động gia công sửa chữa hàng hóa cho thương nhân nước ngoài:

- Hàng hóa nhập khẩu để gia công phải đáp ứng tiêu chí, điều kiện chung quy định nêu trên (1).

- Phải có phương án, biện pháp bảo đảm quá trình thực hiện hoạt động gia công sửa chữa không gây ô nhiễm môi trường theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường (2).

- Có cơ sở, nhà máy sản xuất; hệ thống dây chuyền, thiết bị thực hiện hoạt động gia công sửa chữa phù hợp với quy trình sản xuất của từng loại sản phẩm; có phương án bảo đảm nhân lực đáp ứng quy mô sản xuất (3).

- Ngoài việc bảo đảm tuân thủ cá điều kiện (1), (2), (3) nêu trên, hoạt động gia công sửa chữa hàng hóa thuộc Danh mục sản phẩm CNTT đã qua sử dụng cấm nhập khẩu phải thực hiện theo các quy định về gia công hàng hóa thông thường quy định tại Nghị định số 69/2018/NĐ-CP và các văn bản pháp luật có liên quan.

Nghĩa vụ của thương nhân

Thương nhân nhập khẩu hàng hóa thuộc Danh mục sản phẩm CNTT đã qua sử dụng cấm nhập khẩu để nghiên cứu khoa học và thương nhân thực hiện hoạt động gia công sửa chữa hàng hóa thuộc Danh mục sản phẩm CNTT đã qua sử dụng cấm nhập khẩu cho thương nhân nước ngoài có trách nhiệm thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật có liên quan và quy định tại Quyết định này.

Thương nhân chịu trách nhiệm về chủng loại, số lượng, chất lượng hàng hóa nhập khẩu. Thương nhân nhập khẩu hàng hóa để nghiên cứu khoa học phải tái xuất hoặc tiêu hủy hàng hóa theo quy định của pháp luật sau 3 tháng kể từ ngày kết thúc quá trình nghiên cứu khoa học.

Thương nhân thực hiện hoạt động gia công sửa chữa hàng hóa phải tái xuất toàn bộ sản phẩm ra nước ngoài sau quá trình gia công sửa chữa, không được phép tiêu thụ tại Việt Nam theo quy định pháp luật hiện hành về gia công hàng hóa.

Các thương nhân đã được cấp phép nhập khẩu hàng hóa thuộc Danh mục sản phẩm CNTT đã qua sử dụng cấm nhập khẩu để nghiên cứu khoa học và cấp phép thực hiện hoạt động gia công sửa chữa hàng hóa thuộc Danh mục sản phẩm CNTT đã qua sử dụng cấm nhập khẩu cho thương nhân nước ngoài theo quy định của pháp luật trước 9/10/2019 được tiếp tục thực hiện theo các nội dung và thời hạn hiệu lực trong văn bản cấp phép.

Nghiên cứu phản ánh "chống rửa tiền qua bất động sản và khoảng trống"

Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Xây dựng chủ trì cùng Bộ Tài nguyên và Môi trường nghiên cứu, xử lý phản ánh của báo chí qua bài viết "Chống rửa tiền qua bất động sản và khoảng trống".

Trước đó, báo điện tử Sài Gòn Đầu tư Tài chính ngày 17/9/2019 có bài viết: "Chống rửa tiền qua bất động sản và khoảng trống" có phản ánh: Bộ Xây dựng có trách nhiệm báo cáo về rủi ro rửa tiền qua kinh doanh bất động sản là phù hợp với chức năng quản lý. Nhưng kinh doanh bất động sản phải hiểu là bao gồm quyền sử dụng đất, tài sản trên đất, nhưng việc đăng ký bất động sản sau giao dịch thực hiện tại các văn phòng đăng ký đất đai. Như vậy, khoảng trống pháp luật là không có sự tham gia của các văn phòng đăng ký đất đai, nơi thực hiện cuối cùng các đăng ký giao dịch bất động sản, kể cả từ kênh các dự án phát triển bất động sản và từ kênh các giao dịch dân sự về bất động sản hiện hữu, có thể thông qua môi giới chính thức hoặc môi giới không chính thức.

Về nội dung báo phản ánh, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Xây dựng chủ trì cùng Bộ Tài nguyên và Môi trường nghiên cứu, xử lý theo thẩm quyền và quy định của pháp luật.

Xem xét thông tin báo nêu về cơ chế khuyến khích phát triển điện mặt trời

Thủ tướng Chính phủ vừa giao Bộ Công Thương xem xét thông tin báo nêu về dự thảo cơ chế khuyến khích phát triển điện mặt trời tại Việt Nam.

Trước đó, Báo điện tử Bnews ngày 1/10/2019 có đưa tin phản ánh về dự thảo cơ chế khuyến khích phát triển điện mặt trời tại Việt Nam có một số nội dung tóm tắt: Theo đề xuất mới của Bộ Công Thương, mức giá mua điện mặt trời giảm nhưng nhiều nhà đầu tư nhận định vẫn đủ hấp dẫn thu hút các dự án điện sạch (mặt trời). Vướng mắc chính là cần rõ ràng và minh bạch trong việc ký hợp đồng mua bán điện và thời gian ký hợp đồng như thế nào để doanh nghiệp thực hiện nhanh chóng hơn.

Về thông tin Báo điện tử Bnews phản ánh, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Công Thương xem xét, xử lý trong quản lý phát triển điện mặt trời ở nước ta.

Tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi cho DN

Phó Thủ tướng Chính phủ Vương Đình Huệ yêu cầu Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam tiếp tục thực hiện tốt công tác xây dựng, phổ biến, tuyên truyền pháp luật, chính sách nhằm tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp như chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.

Phó Thủ tướng yêu cầu Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam kịp thời báo cáo Thủ tướng Chính phủ những khó khăn, vướng mắc (nếu có) trong quá trình thực hiện; chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tổng hợp, đánh giá tình hình giải quyết kiến nghị của cộng đồng doanh nghiệp tới các cơ quan quản lý nhà nước từ tháng 10 năm 2016 đến nay, đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng Hệ thống này, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong quý IV năm 2019.

Công nhận TP Phúc Yên (Vĩnh Phúc) hoàn thành nhiệm vụ xây dựng NTM 2018

Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ vừa ký Quyết định công nhận thành phố Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới (NTM) năm 2018.

Phó Thủ tướng giao UBND tỉnh Vĩnh Phúc có trách nhiệm công bố và khen thưởng theo quy định, chỉ đạo thành phố Vĩnh Phúc tiếp tục duy trì và nâng cao chất lượng các tiêu chí, chú trọng tiêu chí về sản xuất và môi trường để đảm bảo tính bền vững trong xây dựng NTM

Phúc Yên là đô thị cửa ngõ, được coi là trung tâm du lịch, nghỉ dưỡng, trung tâm kinh tế công nghiệp - dịch vụ của tỉnh Vĩnh Phúc, với diện tích tự nhiên hơn 120 km², dân số trên 15 vạn người, có 10 đơn vị hành chính gồm 8 phường và 2 xã. Năm 2013, Phúc Yên được công nhận là đô thị loại III và đến năm 2018, Phúc Yên trở thành thành phố trực thuộc tỉnh. Phúc Yên đã khẳng định được vai trò, giữ vị trí chiến lược quan trọng trong sự nghiệp phát triển chung của tỉnh Vĩnh Phúc, góp phần kết nối giao lưu phát triển kinh tế với vùng thủ đô Hà Nội.

Khi bắt tay vào thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM giai đoạn 2010- 2020, với lợi thế có 4 xã tham gia chương trình gồm Cao Minh, Nam Viêm, Tiền Châu và Ngọc Thanh. Các cấp ủy đảng, chính quyền từ thành phố đến cơ sở đã xác định, đây là nhiệm vụ trọng tâm, cần huy động toàn bộ các cấp, các ngành và nhân dân vào cuộc, tập trung các nguồn lực đầu tư, chỉ đạo triển khai, kiểm tra và đánh giá từng tiêu chí. Trên cơ sở các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của Trung ương, của tỉnh, thành phố đã lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, đồng bộ với nhiều giải pháp thông qua việc ban hành các Nghị quyết, chương trình, đề án và hệ thống các văn bản thực hiện nhiệm vụ xây dựng NTM với 19 tiêu chí, 41 nội dung theo quy định. Do vậy, thành phố Phúc Yên đã có nhiều giải pháp, cơ chế, chính sách hỗ trợ nguồn vốn trong thực hiện xây dựng NTM đối với các xã như: Hỗ trợ kinh phí xây dựng cơ sở hạ tầng, làm đường giao thông nông thôn, xây dựng Nhà văn hóa thôn, tổ dân phố, sửa chữa cơ sở giáo dục…

Theo báo cáo của UBND tỉnh, sau khi xã Tiền Châu và xã Nam Viêm được nâng cấp lên thành phường, thành phố Phúc Yên còn 2 xã là Cao Minh và Ngọc Thanh cần thực hiện chương trình xây dựng NTM. Đến nay, với tổng huy động nguồn lực xây dựng NTM 413.279 triệu đồng, cả 2 xã đã hoàn thành chương trình với 100% đường trục xã, đường từ trung tâm xã đến thành phố, 99% đường trục thôn, liên thôn theo tiêu chuẩn kỹ thuật; 100% kênh loại I, loại II và 96% kênh loại III đã được kiên cố; 100% trường học đạt chuẩn quốc gia. Thu nhập bình quân đầu người đạt trên 41,3 triệu đồng/người/năm; tỷ lệ hộ nghèo tiếp cận đa chiều xã Cao Minh còn 0,76%, xã Ngọc Thanh còn 1,28%; 98% người lao động trong độ tuổi ở 2 địa phương này có việc làm thường xuyên. 

Được công nhận hoàn thành nhiệm vụ xây dựng NTM, thành phố Phúc Yên sẽ tiếp tục chỉ đạo 2 xã tập trung xây dựng xã chuẩn NTM nâng cao, thôn dân cư nông thôn mới kiểu mẫu theo định hướng của Trung ương và quy định cụ thể của tỉnh. Phấn đấu đến năm 2020, thu nhập bình quân đầu người đạt trên 50 triệu đồng/người/năm, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn dưới 1%.

Đề xuất giải pháp tiếp tục cải thiện xếp hạng GCI của Việt Nam

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam vừa có ý kiến về việc cải thiện xếp hạng của Việt Nam trong Báo cáo chỉ số an toàn thông tin toàn cầu (GCI) của Liên minh Viễn thông Quốc tế (ITU).

Cụ thể, Phó Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành, địa phương chủ động đẩy mạnh triển khai công tác bảo đảm an toàn, an ninh mạng theo các nhiệm vụ, giải pháp được nêu tại Chỉ thị số 14/CT-TTg ngày 7/6/2019 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường bảo đảm an toàn, an ninh mạng nhằm cải thiện chỉ số xếp hạng của Việt Nam.

Bộ Thông tin và Truyền thông chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan nghiên cứu, đề xuất các giải pháp, nhiệm vụ cần thiết để tiếp tục cải thiện xếp hạng chỉ số GCI của Việt Nam theo đánh giá của ITU, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định đối với những vấn đề vượt thẩm quyền.

* Tại Chỉ thị số 14/CT-TTg ngày 7/6/2019 của Thủ tướng Chính phủ,  Thủ tướng Chính phủ chỉ thị các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước, Ngân hàng thương mại Nhà nước, Ngân hàng Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Chính sách xã hội, Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam và các tổ chức tín dụng, tài chính Nhà nước khác chỉ định, kiện toàn đầu mối đơn vị chuyên trách về an toàn thông tin mạng để làm tốt công tác tham mưu, tổ chức thực thi và kiểm tra, đôn đốc thực hiện các quy định của pháp luật về bảo đảm an toàn, an ninh mạng; phối hợp chặt chẽ với cơ quan chuyên trách về an toàn, an ninh mạng của Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng trong giám sát, chia sẻ thông tin, kiểm tra, đánh giá an toàn, an ninh mạng.

Đối với công tác giám sát, ứng cứu sự cố an toàn thông tin mạng, bảo vệ hệ thống thông tin thuộc quyền quản lý, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu phải tự thực hiện giám sát, ứng cứu sự cố an toàn thông tin mạng, bảo vệ hệ thống thông tin thuộc quyền quản lý hoặc lựa chọn tổ chức, doanh nghiệp có đủ năng lực để thực hiện; thông báo thông tin đầu mối thực hiện giám sát, ứng cứu sự cố an toàn thông tin mạng về Bộ Thông tin và Truyền thông để tổng hợp trước ngày 31 tháng 12 năm 2019 và khi có sự thay đổi về thông tin đầu mối; kết nối, chia sẻ thông tin với Trung tâm Giám sát an toàn không gian mạng quốc gia trực thuộc Cục An toàn thông tin, Bộ Thông tin và Truyền thông.

Đối với công tác kiểm tra, đánh giá an toàn thông tin mạng cho hệ thống thông tin thuộc quyền quản lý phải lựa chọn tổ chức, doanh nghiệp độc lập với tổ chức, doanh nghiệp giám sát, bảo vệ để định kỳ kiểm tra, đánh giá an toàn thông tin mạng đối với hệ thống thông tin cấp độ 3 trở lên thuộc quyền quản lý hoặc kiểm tra, đánh giá đột xuất khi có yêu cầu theo quy định của pháp luật.

Còn đối với các hệ thống thông tin cấp độ 3 và cấp độ 4, định kỳ hàng năm thực hiện kiểm tra, đánh giá và báo cáo Bộ Thông tin và Truyền thông trước ngày 14 tháng 12 để tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ.

Đối với hệ thống thông tin quan trọng quốc gia (cấp độ 5), định kỳ 06 tháng một lần thực hiện kiểm tra, đánh giá và báo cáo Bộ Thông tin và Truyền thông trước ngày 14 tháng 6 và ngày 14 tháng 12 hàng năm để tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ.

Tổ chức Hội nghị phát triển vận tải thủy và vận tải ven biển

Văn phòng Chính phủ vừa có thông báo kết luận của Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng tại cuộc họp chuẩn bị Hội nghị về phát triển vận tải thủy và vận tải ven biển.

Với bờ biển dài, hệ thống sông, kênh đa dạng, tạo thành mạng lưới giao thông đường thủy rất thuận lợi, liên thông giữa các địa phương và các vùng trong cả nước, vận tải đường thủy nội địa và vận tải ven biển thời gian qua đã đóng vai trò quan trọng trong việc vận chuyển hàng hóa, hành khách; tạo ra nhiều việc làm, góp phần phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ tổ quốc.

Tuy nhiên, vai trò cũng như đóng góp của giao thông đường thủy nội địa chưa tương xứng với tiềm năng và chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội. Chính phủ đã giao Bộ Giao thông vận tải chuẩn bị tổ chức Hội nghị về phát triển vận tải thủy và vận tải ven biển nhằm đánh giá rõ hiện trạng, tiềm năng, lợi thế để xác định các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của vận tải thủy và vận tải ven biển.

Để Hội nghị đạt chất lượng, Phó Thủ tướng yêu cầu Bộ Giao thông vận tải tiếp tục lấy ý kiến tham gia của các Hiệp hội, các doanh nghiệp vận tải, các bộ, ngành và địa phương liên quan để hoàn thiện báo cáo; làm rõ mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp trong thời gian tới để đẩy mạnh phát triển vận tải thủy, vận tải ven biển, kết nối hiệu quả các phương thức vận tải; có kế hoạch đầu tư các công trình thiết yếu để tháo gỡ các nút thắt về hạ tầng.

Báo cáo của Bộ cần nêu được nhiệm vụ, giải pháp đổi mới, phát triển đường thủy nội địa để làm cơ sở nghiên cứu, đề xuất xây dựng Chiến lược phát triển đường thủy nội địa đến năm 2030 tương xứng với tiềm năng, lợi thế, bảo đảm an toàn, hiệu quả, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội.

Phó Thủ tướng yêu cầu Bộ Giao thông vận tải chuẩn bị kỹ chương trình Hội nghị, phương án tổ chức, đảm bảo thiết thực, tiết kiệm, hiệu quả./.

Top